BA CHIÊU THỨC MỞ ĐƯỜNG CHO THƠ ĐI TỚI BẾN
BA
CHIÊU THỨC MỞ ĐƯỜNG CHO THƠ ĐI TỚI BẾN
Lời Nói Đầu
Vào cuối thập niên 30 của thế kỷ
20, khi phong trào Thơ Mới đang nở rộ, một thi sĩ trẻ tài năng vì hoàn cảnh trớ
trêu, đã phải dai dẳng chất chứa trong lòng một nỗi tủi nhục buồn sầu sâu nặng.
Nhưng chính nhờ cái tâm sự tủi nhục buồn sầu đó ông đã sáng tác 2 bài thơ trong
đó có một bài được đánh giá rất cao về giá trị nghệ thuật. Đó chính là thi sĩ
Vũ Hoàng Chương và hai bài thơ được đề cập đến là Phương Xa và Say Đi Em.
Thành Sầu Của Vũ Hoàng
Chương
Vũ Hoàng Chương sinh năm 1916, lúc
Nho học đang lụi tàn. Khoa thi Hương cuối cùng là
khoa Mậu Ngọ (1918), tổ chức tại trường Thừa Thiên. Sau khoa thi Hương này,
ngày 28/12/1918, vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ khoa cử ở Việt Nam. Khoa thi Hội
và thi Đình cuối cùng được tổ chức năm 1919. Những người thi đỗ có bằng nhưng
không được bổ nhiệm chức vụ gì. (1)
Cha mẹ Vũ Hoàng Chương, cũng
như rất nhiều bậc cha mẹ thuộc hàng quan lại, khá giả thời bấy giờ, ở vào thế tấn
thối lưỡng nan. Một là, giữ lấy chút tiết tháo, thà để con lông bông chịu dốt
chứ không thèm hợp tác với ngoại bang. Hai là, cho con theo Tây học để mở mang
kiến thức, có cơ hội thăng tiến trong xã hội mới. Họ, hầu hết, đã chọn con đường
thứ hai. Vũ Hoàng Chương nhờ thế, đỗ Tú Tài Pháp ban toán năm 21 tuổi (1937).
Năm 1938 ông vào Trường Luật
nhưng chỉ được một năm thì bỏ, đi làm Phó Kiểm Soát Sở Hỏa Xa Đông Dương,
phụ trách đoạn đường Vinh – Na Sầm. (2)
“Vào năm 1935, Hà Nội tuy sống dưới chế độ bảo
hộ của thực dân Pháp nhưng có một bộ mặt rất thanh bình, vui vẻ, trẻ trung. Nhà
cầm quyền đang cố tình dung túng các cuộc ăn chơi phóng túng để người ta quên
đi biến cố đàn áp tàn bạo vừa qua (Năm 1930, Nguyễn Thái Học và mười hai liệt
sĩ VN Quốc Dân Đảng khác phải lên đoạn đầu đài ở Yên Bái, sau đó là chiến dịch
lùng sục bắt bớ ở nhiều nơi), đồng thời để ru ngủ thanh niên nên các
trà đình, tửu điếm, các tiệm nhẩy đầm, các nhà hát ả đào (còn gọi là hát cô đầu)
và các tiệm hút thuốc phiện mọc lên nhan nhản. Người ta đua nhau ăn diện, nhiều
cậu công tử Hà Thành diện đúng mốt Paris, tay sách can đi bên cạnh các cô gái
tân thời, phấp phới áo dài Lemur Nguyễn Cát Tường.
Vũ Hoàng Chương ngoài việc bắt buộc
phải theo Tây học để tiến thân, còn cắn phải miếng mồi “ru ngủ” của người Pháp.
Ông cũng lao vào những thú vui trác táng - rượu, thuốc phiện, nhảy đầm và cả
gái nữa. Về điểm này, Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một đoạn khá đầy
đủ:
Người
say đủ thứ: Say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn
"hơn" cổ nhân những thứ say mới nhập cảng: Say thuốc phiện, say nhảy
đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say
thơ. (2)
Như vậy, “thành sầu” của Vũ Hoàng
Chương là nỗi sầu đất nước bị ngoại bang đô hộ, dân tộc bị chúng làm tha hóa,
băng hoại bằng đủ mọi âm mưu thâm độc. Trớ trêu thay, chính ông lại góp tay,
giúp sức phục vụ bộ máy cai trị ấy. Và chính ông lại lậm vào những cuộc chơi
trác táng do chúng đặt ra, không những tự làm hỏng mình mà còn làm gương xấu
cho lớp trẻ, rường cột của tương lai dân tộc. Ông cảm thấy tội lỗi, tủi nhục, uất
ức và chất ngất buồn sầu.
(Đoạn này có vài chỗ được trích hoặc
mượn ý từ những bài viết trước của Phạm Đức Nhì)
Hai Bài Thơ
Để giải tỏa nỗi buồn sầu cao ngất
đó, ông đã nghĩ ra 2 giải pháp:
1/ Bỏ đi thật xa: Lênh đênh trên
biển cả hoặc ghé vào một bến bờ hoang sơ nào đó để tránh những đôi mắt coi thường,
khinh bỉ của người đời.
2/ Tìm quên trong khói thuốc phiện,
men rượu, tiếng nhạc du dương dưới ánh đèn màu, vòng tay vũ nữ.
Giải pháp 1, theo tôi, chắc chỉ là
trong tâm tưởng và sau đó bộc lộ trên trang giấy bằng bài thơ Phương Xa
Giải pháp 2 được ông thực hiện nhiều
lần và kết quả là – trong một lúc xuất thần “say không còn biết chi đời”
- đã để lại cho vườn thơ nhân loại tuyệt phẩm Say Đi Em.
Cả hai bài đều nằm trong tập Thơ
Say của Vũ Hoàng Chương xuất bản năm 1940.
PHƯƠNG XA
1/
Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng
Xô về Đông hay giạt tới phương
Đoài
Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng
Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi
2/
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy
đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi
khinh
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy
lênh đênh.
3/
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi trơ vơ
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến
hoang sơ.
4/
Men đã ngấm bọn ta chờ nắng tắt,
Treo buồm cao cùng cao tiếng hò khoan.
Gió đã nổi nhịp trăng chiều hiu hắt,
Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy cho
ngoan.
SAY ĐI EM
1/
Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng
Một trời phấn hương
Đôi người gió sương
Đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương...
Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối
xưa kề, tình nay sao héo?
Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
2/
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Âm ba gờn gợn nhỏ
Ánh sáng phai phai dần...
Bốn tường nghiêng điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi thân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta
Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa
Tay mềm mại bước còn chưa chuếnh choáng
Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời Phóng Đãng
Còn chưa say hồn khát vẫn thèm men
Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt!
Rượu, rượu nữa! Và quên, quên hết!
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi...
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
3/
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
(Vũ Hoàng Chương)
Đây là hai bài thơ cùng một tâm trạng,
được viết bởi cùng một thi sĩ tài hoa – ngôn ngữ, hình tượng chắt lọc,
đẹp đẽ, cao sang, câu cú gọn gàng trong sáng -
nhưng có khác biệt khá lớn về mấy
điểm trong kỹ thuật thơ – tạm gọi là “3 chiêu thức căn bản”. Tôi muốn nói đến thể thơ, cách gieo vần và phân bổ số chữ trong câu.
Thể Thơ Và Cách Dàn Trải Tứ
Thơ.
1/ Phương Xa
Viết theo thể Thơ Mới Trường
Thiên, phân mảnh đứt đoạn cả về ý lẫn về vần. Bài thơ được chia làm 4 đoạn, mỗi
đoạn 4 câu - diễn tả một ý, một mảnh tâm sự riêng. Nhìn toàn cảnh thì tứ thơ được
dàn trải thành 4 “vũng thơ” riêng biệt, không có dòng chảy.
Dàn trải tứ thơ kiểu này có lợi
trước mắt là có thể dồn tâm trí vào một ý nhỏ, một mảnh tâm sự - xong ý này thì
bước sang ý khác - chứ không cần lúc nào cũng phải bận rộn với toàn cảnh của
bài thơ.
Nhưng có một bất lợi rất lớn là
bài thơ bị đứt mạch cảm xúc - cảm xúc không có “sóng sau dồn sóng trước” nên
không thể lớn mạnh được. Thi sĩ dù kỹ thuật thơ có điêu luyện đến cỡ nào, khi
làm thơ có cao hứng đến đâu, những lúc ngừng nghỉ để chuyển đoạn, lý trí sẽ xuất
hiện - điều chỉnh chỗ này, uốn nắn chỗ kia. Và cơn cao hứng sẽ hạ xuống, cảm
xúc sẽ như bong bóng bị xì hơi, không đủ mạnh để tạo hồn thơ.
Tệ hại hơn, khi có mặt của lý trí
chữ “xạo” sẽ có cơ hội tung hoành. Câu 3 của đoạn 3 là một thí dụ rõ ràng.
“Đời kiêu bạc không dung hồn
giản dị”
Tâm hồn Vũ Hoàng Chương lúc ấy đầy
ắp tủi nhục và mặc cảm tội lỗi chứ đâu có “giản dị” như ông tự nhận với văn
chương để đỡ ngượng. Và mắt người đời có chút rẻ rúng, coi thường ông cũng là lẽ
tự nhiên chứ đâu có gì là “kiêu bạc”. Chính lý trí đã đứng sau lưng đẩy “cái
tôi văn hoá” của ông ra trước mặt thiên hạ viện lẽ chống chế chứ nếu là “cái
tôi đích thực” thì chữ “xạo” đâu có đất dụng võ.
2/ Say Đi Em
Là Thơ Mới nhất khí liền mạch.
Trong Say Đi Em tâm sự của tác giả được dàn trải liền lạc một mạch, từ đầu đến
cuối bài thơ. Nhờ số chữ trong câu thay đổi với biên độ rộng, cách gieo vần tài
hoa nên dòng chảy của tứ thơ thông thoáng, đặc biệt 2 đoạn sau dòng chảy rất mạnh.
Hơn nữa, tác giả viết trong cơn
say đến mức lạc thần trí nên cảm xúc dâng tràn, hồn thơ lai láng. Lời thơ là tiếng
lòng Chân Thật (viết hoa) của “cái tôi đích thực” chứ không có bóng dáng của chữ
“xạo” như trong bài thơ Phương Xa.
Đoạn thơ:
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
đã chúng minh điều đó. Ông không
chống chế, tránh né như trong bài Phương Xa mà cúi đầu chấp nhận. Nỗi tủi nhục
buồn sầu ấy là có thật, to lớn như một bức tường thành lúc nào cũng sừng sững
trước mắt ông.
Vần
1/ Phương Xa:
Vần gián cách cả 1/3 lẫn 2/4. Bài
thơ 16 câu có 8 cặp vần trong đó 5 cặp chính vận (đứa nữa, kỷ dị, vơ sơ, tắt hắt,
khoan ngoan) và 3 cặp thông vận gần (sóng rộng, Đoài vơi, khinh đênh). Thơ Mới
Trường Thiên - mỗi câu 8 chữ đều đều, tẻ nhạt - gieo vần như thế là quá nhiều,
hội chứng nhàm chán vần rất rõ nét.
2/ Say Đi Em:
Vần trong Say Đi Em không theo một
quy luật nào, thường là vần liên tiếp nhưng cũng có mấy đoạn vần gián cách xen
vào để làm mới lạ âm điệu:
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh
tay hờ
Và
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Ngoài ra, thuận theo dòng chảy của
âm thanh, thi sĩ cũng chẳng ngại ngùng đưa vào 2 câu lục bát cho thêm phần du
dương.
Lòng nghiêng tràn hết yêu
thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ.
Đặc biệt hơn cả là một đoạn thơ
dài điệp vận vần bằng (rồi trôi môi rời ơi) được xen kẽ bằng 3 câu vần trắc (vững
nữa lửa)
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi...
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
.
đọc không ngán mà hiệu quả cảm xúc
rất cao. Thêm nữa, hai nhóm chữ “em ơi” ở câu đầu và câu sau cùng của đoạn cuối hòa cùng nhóm vần “rồi
trôi môi rời ơi” của đoạn điệp vận tạo thành một giai kết hoàn toàn với âm vang
tuyệt vời kết thúc dòng nhạc của bài thơ.
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Theo tôi, cách gieo vần khác lạ của
Say Đi Em không chỉ đến từ kỹ thuật thơ điêu luyện của thi sĩ mà chính cảm xúc
mạnh mẽ trong cơn say “say không còn biết chi đời” đã góp phần lèo lái,
tạo nên “giàn vần” độc đáo, tuyệt vời của bài thơ.
Phân Bổ Số Chữ Trong Câu
1/ Phương Xa:
Mỗi câu 8 chữ đều đặn từ đầu đến
cuối. Nhịp điệu tẻ nhạt.
2/ Say Đi Em:
Số chữ trong câu không cứng ngắc
mà thay đổi tùy hứng, với biên độ rất rộng, không theo một quy luật nào. Câu ngắn
nhất 3 chữ (Chân rã rời), câu dài nhất 13 chữ (Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối
xưa kề, tình nay sao héo?). Đặc biệt có mấy đoạn nhiều câu ngắn xen giữa những
đoạn câu dài nên nhịp điệu của bài thơ lúc khoan, lúc nhặt, chứ không đều đều,
nhàm chán.
Nhìn trên bề mặt chữ nghĩa thì Say
Đi Em vần dầy đặc, có khi còn hơn cả Phương Xa nữa, nhưng số chữ trong câu thay
đổi với biên độ rất rộng đã hóa giải hội chứng nhàm chán vần.
Ngoài ra, 3 chiêu thức căn bản
trên còn ảnh hưởng dây chuyền đến:
Dòng Chảy
Của Tứ Thơ
1/ Phương Xa:
Chỉ là 4 “vũng thơ”, không có
dòng chảy.
2/ Say Đi Em:
Tứ thơ chảy thành dòng từ câu đầu
đến câu cuối; bắt đầu từ đoạn 2 dòng chảy rất mạnh. Bài thơ có 3 dòng chảy quyện
vào nhau: Dòng chảy của tứ thơ, dòng chảy của âm thanh và dòng chảy của cảm
xúc.
Cao Trào
1/ Phương Xa:
Không có cao trào.
2/ Say Đi Em:
Cao trào - với độ cao chót vót - nằm
ở 2 câu:
“Trong men cháy giác quan
đều bén lửa
Say không còn biết chi đời”.
Cảm Xúc
1/ Phương Xa:
Cảm xúc tầng 1 mạnh nhờ ngôn ngữ,
hình tượng đẹp, câu cú trong sáng
Cảm xúc tầng 2 khá mạnh nhờ bố cục
dễ hiểu: Ý chính nằm ở 2 đoạn giữa, đoạn đầu thuyền nhổ neo rời bến, đoạn cuối
thuyền “theo gió” tiếp tục lênh đênh. Tuy nhiên, phân bổ lực lượng như vậy
không hợp lý - đoạn đầu và đoạn cuối quân đông (mỗi đoạn 32 chữ) mà nhiệm vụ lại
quá nhẹ - sinh ra nhiều chữ thừa và hiện tượng “thừa giấy vẽ voi”.
Cảm xúc tầng 3: Do lý trí đứng ra
đạo diễn bài thơ nên cảm xúc tầng 3 không có.
2/ Say Đi Em:
Cảm xúc tầng 1 cũng mạnh do ngôn
ngữ, hình tượng đẹp, câu cú trong sáng.
Cảm xúc tầng 2: Trong Say Đi Em
thi sĩ họ Vũ không dàn ý trước (như trong Phương Xa) mà cho cảm xúc cực mạnh của
mình thúc đẩy “cái tôi đích thực” “bật” ra những con chữ và để chúng mặc tình
tuôn chảy bất cần bố cục, phương hướng.
Với tư cách một người đọc, tôi xin
mạn phép chia bài thơ làm 3 đoạn.
Đoạn 1: Phần dẫn nhập, giới thiệu
khung cảnh vũ trường và cô ca ve bạn nhảy.
Đoạn 2 : Đắm hồn trong tiếng nhạc,
bước nhảy, men rượu – trên đường tới điểm đến của tứ thơ (KHÔNG CHỦ Ý)
Đoạn 3: Gặp tứ thơ một cách bất ngờ
- nỗi tủi nhục buồn sầu mà “cái tôi văn hóa” luôn che giấu.
Lẽ ra cảm xúc tầng 2 chỉ là khoái
cảm của người đọc khi nhận biết cách dàn quân khéo léo, hợp lý của bài thơ.
Nhưng ở đây chính vì tác giả tước bỏ quyền hành của lý trí ngay từ việc định hướng
tứ thơ nên bài thơ thấm đẫm chất tình. Ngay bố cục của bài thơ cũng đã tặng cho
người đọc cái “luồng hơi nóng”, cái “sướng” của cảm xúc tầng 3.
Cảm xúc tầng 3:
Sau đoạn đầu với âm điệu nhẹ
nhàng, nhịp điệu chậm rãi, có nhiệm vụ dẫn nhập và giới thiệu, phần còn lại của
bài thơ gồm 34 câu, 214 chữ - do thi sĩ đang trong cơn say, cao hứng đến lạc thần
trí - câu nào, chữ nào cũng thấm đẫm cảm xúc. Ba dòng chảy - vừa
nhanh, vừa mạnh - quyện vào nhau, chỉ trong khoảnh khắc đã tạo nên hồn thơ lai
láng, thôi thúc độc giả đọc một mạch đến hết bài mà không chán.
Nguyên Nhân Sự Thành
Công Của “Say đi Em”
Thành công to lớn về phương diện
nghệ thuật của Say Đi Em trước hết, là nhờ tác giả đã chọn 3 chiêu thức căn bản
(trong kỹ thuật thơ) hoàn toàn trái ngược với Phương Xa:
1/ Thể thơ nhất khí liền mạch tạo
dòng chảy cho tứ thơ (không độc đáo nhưng là điều kiện cần thiết – không có
dòng chảy thì không có “sóng sau dồn sóng trước”, cảm xúc không thể lớn mạnh và
chắc chắn không thể có hồn thơ).
2/ Số chữ trong câu thay đổi tùy
tiện với biên độ lớn khiến dòng nhạc trong thơ lúc khoan, lúc nhặt, không đều đều
tẻ nhạt.
3/ Vần liên tiếp là chính nhưng
cũng có xen kẽ vần gián cách. Nhìn thoáng qua thì vần đậm đặc nhưng sự biến đổi
của số chữ trong câu đã hóa giải hội chứng nhàm chán vần.
Say Đi Em ngoài 3 chiêu thức trên
còn có thêm 2 điểm đặc biệt nổi trội:
1/ Nhờ cảm xúc cực mạnh trong cơn
say bí tỉ, điệp vận dầy đặc và đúng lúc nên dòng chảy của các con chữ bắt đầu từ
đoạn 2 rất xiết, bài thơ lên đến cao trào ở 2 câu:
Trong men cháy giác quan đều
bén lửa
Say không còn biết chi đời.
2/ Đọc Say Đi Em từ đầu đến gần hết
bài thơ cũng chưa thấy bóng dáng của tứ thơ. Chỉ thấy tác giả kể lại một đêm đắm
mình trong men rượu, tiếng nhạc và vòng tay gái nhảy ở vũ trường. Mãi đến hết
đoạn 2, khi dòng chảy của các con chữ, dòng nhạc và dòng cảm xúc đã lên đến đỉnh
điểm, tạo thành cao trào, tứ thơ mới lộ diện:
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Đó là nỗi tủi nhục buồn sầu, không
biết từ lúc nào, đang đứng sừng sững như một bức tường thành trước mắt tác giả.
Chữ “chưa” chứng tỏ nó đã lởn vởn
trong tâm hồn ông từ lâu lắm. Một lúc sau chữ “không” xuất hiện, cho biết nó to
lớn quá, mọi nỗ lực trốn tránh, xua đuổi, tìm quên đều thất bại.
Lúc ấy tác gjả đã lạc thần trí,
các con chữ hoàn toàn từ cảm xúc tuôn ra làm hồn thơ lai láng. Không có sự can
thiệp của lý trí, đó chính là tiếng lòng chân thật của thi sĩ.
Tầm Quan Trọng Của 3 Chiêu
Thức Căn Bản
Phương Xa và Say Đi Em là hai bài
thơ của cùng một tác giả, diễn tả cùng một tâm trạng. Chỉ khác nhau ở 3 chiêu
thức căn bản trong kỹ thuật thơ - thể thơ, cách gieo vần và phân bổ số chữ
trong câu - mà giá trị nghệ thuật cách nhau rất xa. Phương Xa chỉ ở trên mức
“thường thường bậc trung” chút ít. Còn Say Đi Em đã lên đến đỉnh điểm, đạt được
mục đích tối thượng của người làm thơ – giao tiếp với đồng loại bằng Tiếng Người
Chân Thật, đưa thi sĩ và tác phẩm của ông bước vào và ung dung ngồi ở vị trí
trang trọng trong Bến Bờ Thi Ca.
Đồng ý Say Đi Em lên đến đỉnh là
nhờ ở “2 điểm đặc biệt nổi trội” được đề cập ở phần trên. Nhưng nếu không có 3
chiêu thức căn bản làm nền thì “2 điểm đặc biệt nổi trội” đó không thể chen vào
bài thơ được.
Bất cứ thi sĩ nào, nếu sử
dụng 3 chiêu thức trên, bài thơ của ngài tuy không bảo đảm là sẽ thành công như
Say Đi Em nhưng ít nhất hội chứng nhàm chán vần sẽ được giảm thiểu tối đa hoặc
loại bỏ, nhịp điệu đều đều, tẻ nhạt sẽ biến mất, tứ thơ, nhạc điệu, cảm xúc sẽ
nhập chung thành một dòng thênh thang chảy về phía trước. Nếu làm thơ trong lúc
có hứng cảm xúc tầng 3 ít nhiều cũng sẽ xuất hiện.
Trong trường hợp thi sĩ
“nổi điên” đến mức lạc thần trí, 3 dòng chảy nhập một đó sẽ rất xiết, bài thơ sẽ
ngập tràn cảm xúc, hồn thơ lênh láng (3).
Tôi Không Ác Cảm Với Thơ
Mới Trường Thiên
Như đã nói ở phần trên, Thơ Mới
Trường Thiên cũng có chỗ hữu dụng của nó. Vì lý trí thường tái xuất hiện khi
chuyển đoạn nên ý tứ của mỗi đoạn – có sự quan tâm của lý trí - thường tươm tất
hơn, sâu sắc hơn, nét đẹp văn chương của mỗi đoạn hoàn chỉnh hơn.
Nhưng cảm xúc bị nghẽn mạch nên
không thể lớn mạnh được. Cơn cao hứng của thi sĩ cứ mỗi lúc ngừng nghỉ lại xì
hơi, xẹp xuống, rất khó tạo được cảm xúc tầng 3 chứ đừng nói chi đến hồn thơ.
Khá đông thi sĩ trẻ nhiều triển vọng
hiện đang sử dụng thể Thơ Mới Trường Thiên trong phần lớn những tác phẩm của họ.
Thậm chí đại đa số thơ của một thi sĩ lão thành trong một trang web văn học uy
tín, đều được viết theo thể này. Có nghĩa là - nếu không thay đổi kỹ thuật thơ
– thì dù có cao hứng cỡ nào, cố gắng cách mấy, thơ của ông, cho đến hết đời,
cũng chỉ “dậm chân tại chỗ”, không thể nào đến gần Bến Bờ Thi Ca được.
Kết Luận
Làm thơ, ai cũng muốn đứa con tinh
thần của mình được nhiều người mến chuộng, yêu thích. Người có tài,
mộng lớn hơn - muốn thơ của mình bay lên tận đỉnh cao hoặc bước vào khu vườn
tươi đẹp của Bến Bờ Thi Ca.
Xin các nhà thơ có cao vọng hãy
nghĩ đến việc thao dợt để sử dụng nhuần nhuyễn 3 chiêu thức kỹ thuật nói trên rồi
chờ đợi. Bất chợt một hoàn cảnh, một tứ thơ nào đó khuấy động tâm hồn đến mức
“nổi điên” – vâng, đúng lúc đó nếu phóng bút, cơ hội có được bài thơ để đời sẽ
rất cao.
PHẠM ĐỨC NHÌ
phamnhibinhtho.blogspot.com
CHÚ THÍCH:
1/ Chi Tiết Thú Vị Về Khoa Thi Nho
Học Cuối Cùng, Chí Đức
https://kienthuc.net.vn/tham-cung/chi-tiet-thu-vi-ve-khoa-thi-nho-hoc-cuoi-cung-405397.html
2/ (Vũ Hoàng Chương,
Wikipedia.org)
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_Ho%C3%A0ng_Ch%C6%B0%C6%A1ng
3/ Để diễn tả loại cảm xúc không
phải đến từ câu chữ, thế trận của bài thơ một số tác giả sử dụng những nhóm chữ
như: Bài thơ có hồn, hồn thơ man mác, hồn thơ khá mạnh, hồn thơ nhè nhẹ, hồn
thơ lai láng
Để tránh nhập nhằng lẫn lộn cảm
xúc từ câu chữ, thế trận với cảm xúc từ cơn cao hứng của tác giả, tôi chia cảm
xúc thành 3 tầng:
a/ Cảm
xúc tầng 1: Khoái cảm người đọc có được khi gặp ngôn ngữ, hình tượng đẹp, câu
cú có cấu trúc mới lạ, trong sáng.
b/ Cảm
xúc tầng 2: Khoái cảm người đọc có được khi tiếp xúc với bố cục, thế trận hợp
lý của bài thơ.
c/ Cảm
xúc tầng 3: Khoái cảm không phải từ câu chữ, thế trận mà hình như từ đâu đó “giữa
2 hàng kẻ” do cơn cao hứng của thi sĩ truyền vào bài thơ. Đó là thứ khoái cảm
cao cấp, luồng hơi nóng tạo cảm giác “sướng” đặc biệt.
Khi thi sĩ lạc thần trí, nổi điên,
3 dòng (tứ thơ, nhạc, cảm xúc) quyện vào nhau, chảy rất mạnh, tạo thành cao
trào. Lúc đó ta có hồn thơ. Lời thơ là tiếng lòng chân thật của thi sĩ.
Theo cách dùng chữ của tôi chỉ có
“hồn thơ lai láng” mới được xếp vào loại “hồn thơ”. Còn những nhóm chữ
như “bài thơ có hồn”, “hồn thơ man mác”, “hồn thơ khá mạnh”, “hồn
thơ nhè nhẹ”, đều được gọi là cảm xúc tầng 3. Thí dụ: Cảm xúc tầng 3 có nhưng
không đáng kể, cảm xúc tầng 3 nhè nhẹ, cảm xúc tầng 3 khá mạnh, cảm xúc tầng 3
rất mạnh …
Comments
Post a Comment