HAI PHONG CÁCH BÌNH THƠ
HAI PHONG CÁCH BÌNH THƠ
Phong Cách Nguyễn
Khôi
Cách đây không lâu tôi tình cờ đọc được bài Kim Lũ Y – Thơ Xưa Mà Vẫn Mới của
Nguyễn Khôi, trong đó ông phản bác cách nhìn nhận bài “thơ” Kim Lũ Y (Đỗ Thu
Nương) của tôi.
Tôi cho rằng Kim Lũ Y
không phải là thơ vì chỉ là lời giáo huấn của bậc trưởng thượng đối với lớp hậu
bối – không có cảm xúc. Cách nhìn nhận của Nguyễn Khôi hoàn toàn trái ngược:
Kim Lũ Y là thơ, không những thế, Thơ Xưa Mà Vẫn Mới.
Ông đã, không tương nhượng,
phản bác cách nhìn nhận của tôi hoàn toàn. Nhưng ông có lối phản bác rất lịch sự.
Ông cho rằng có hai cách nhìn nhận bài thơ và ông dùng lý luận của mình chứng
minh cách nhìn nhận của ông là đúng.
Tôi không đồng ý, viết lại một bài khác (Kim Lũ Y Có Phải Là Thơ?) để làm rõ
cách nhìn nhận của mình. Ông Nguyễn Khôi đọc được, gởi e-mail cho tôi đại ý: Với
Kim Lũ Y, anh cảm nhận cách của anh, tôi cảm nhận cách của tôi; sư bảo sư phải,
vãi bảo vãi hay; hãy để công luận phán xét. Lời lẽ trong e-mail rất hòa nhã, biểu
lộ cung cách của một bậc trưởng thượng. Tôi, để bảo vệ quan điểm của mình,
e-mail trả lời.
Cuối cùng hai người vẫn còn nhìn ở hai hướng khác nhau nhưng trong tôi đã có một
ấn tượng rất đẹp về người đã phản bác mình. Ông Nguyễn Khôi đã “thắng” tôi,
không phải bằng kiến thức văn học, khả năng lý luận mà bằng phong cách lịch sự,
hòa nhã trong đối thoại văn chương. Xin được bày tỏ lòng kính phục.
Phong Cách Đỗ Hoàng
Trên trang VanDanViet tình cờ đọc được bài “Dấu Chân Qua Trảng Cỏ” CủaThanh Thảo
- Dở, Kém Toàn Diện của Đỗ Hoàng, tôi có một số nhận xét sau đây:
1/ Thái Độ Kiêu Binh:
Ngay những dòng đầu phía
dưới bài thơ, Đỗ Hoàng viết:
Nhà thơ Thanh Thảo tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ với tư cách dân sự. Ông xếp
sau Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm ….
Tại sao lại có thái độ kiêu binh, mỉa mai, miệt thị “tư cách dân sự” của tác giả
như vậy? Tư cách lính hay dân sự có ăn nhậu gì đến giá trị nghệ thuật của bài
thơ? Một nhà thơ được xếp trước ai, sau ai là do thi tài chứ đâu phải do có mặc
áo lính hay không.
2/ Đấm Vào Hạ Bộ:
“Ông được cưng nựng và lăng xê khá đều đặn trên văn đàn chính thống.”
Nếu Đỗ Hoàng chứng minh được Dấu Chân Qua Trảng Cỏ là bài thơ dở thì không cần
nói người đọc cũng sẽ suy ra đúng điều Đỗ Hoàng muốn nói. Đàng này bình thơ mà
chưa đá động gì đến bài thơ đã bô lô bô loa nói xấu tác giả. Chắc Đỗ Hoàng muốn
chứng minh gián tiếp: Tác giả xấu thì bài thơ phải dở chăng!
Đây là lối bình thơ bá đạo,
như võ sĩ quyền anh đấm vào hạ bộ của đối thủ.
3/ Mỉa Mai “Chiếc Bòng Con”
Chiếc bòng con đựng những
gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Chiếc bòng đựng nhiều nhất chỉ bộ áo quần bà ba là cùng, hoặc nữa là hai bơ gạo
(!)
Tại sao bình thơ mà lại đi bới móc chiếc bòng của người ta? Con người dù thời
nào cũng vậy, được đánh giá cao hay thấp là ở số lượng, phẩm chất của sản phẩm
và dịch vụ họ đóng góp cho xã hội chứ không phải ở chiếc bòng lớn hay nhỏ, ba
lô nặng hay nhẹ.
4/ Lỗi Vận:
Đọc kỹ, tôi thấy cả bài thơ không có chỗ nào lỗi vận. Có lẽ muốn giảm bớt vị ngọt
quá đậm của thơ lục bát, tác giả, trong vài chỗ, đã dùng thông vận thay vì
chính vận.
Đỗ Hoàng chê:
Bài thơ lục bát chỉ 24 câu mà
Thanh Thảo dùng nhiều vần thông khiên cưỡng và đầy lỗi vận, lỗi vần (10 lỗi):
a/
Những gì gửi lại chỉ là dấu chân
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta
Phản biện: Thông vận xa chứ
không phải lỗi vận.
b/
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn như sợi chỉ giăng
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
theo tôi, không sai, không
lỗi, chỉ không khéo - điệp vận không cần thiết. Hay nói rõ hơn, vướng vào “vần
ngang câu bát”. Nhưng trong 6 chữ tạo vần chỉ có 3 chữ (chân, vần, gần) tạo thành 2 cặp chính vận; 3 chữ còn lại (mang, giăng, vàn) tạo thành 2 cặp thông vận xa. Hội
chứng nhàm chán vần bị hóa giải hoàn toàn.
Tôi xin copy cả đoạn để bạn
đọc dễ thấy.
Tiếng bầy chim két bỗng
thành mênh mang
Lối mòn như sợi chỉ giăng
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Dấu chân ai đọc nên vần
Nên nào ai biết đi gần đi xa.
Hơn nữa, hai chữ quan trọng
nhất để tạo vần ngang câu bát là (vàn, chân) chỉ
là thông vận xa nên sự kết nối âm điệu không đủ để tạo cảm giác nhàm chán.
c/
Lối mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Phản biện: Thông vận xa chứ có gì mà ầm ĩ.
d/
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhòe?
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Phản biện: Một chút phá cách, dọc lên vẫn trơn
tru, vẫn đủ độ ngọt.
Tóm lại, cách chơi vần của Đỗ Hoàng cứng và
nguyên tác quá nên bắt bẻ hơi kỹ.
Nhưng có một lỗi vần quẩn ở 7 câu cuối anh lại
bỏ sót.
5/ Học Tiền Nhân
Nếu biết học tiền nhân một
chút thì có thể viết khổ kết bài thơ trên có sức mạnh khái quát hơn, nâng tầm
thơ lên hơn.
Đồng ý chúng ta cũng cần “luận cổ suy kim”. Nhưng làm thơ mà không chịu học cái
mới, cái lạ, không dám đứng trên đôi chân của mình, mà cứ ru rú theo bước tiền
nhân thì có ngày bước xuống … hố.
6/ Sửa chữa nâng cao
Bình thơ thì cứ phân tích rồi phán nó hay, hoặc dở; hay ở chỗ nào - chứng minh,
dở chỗ nào - chứng minh. Ở đây Đỗ Hoàng chơi cái màn “sửa chữa nâng cao”, viết
lại cả bài thơ của tác giả. Với tôi, đó là thái độ kiêu ngạo đến lố bịch.
Quốc có quốc pháp, gia có gia quy - ở đâu có lề luật đó. Trên chiếu văn chương
cũng có một số quy luật bất thành văn. Trong thơ, không gian để tâm tình của
thi sĩ chuyển động rộng rãi hơn, tự do hơn vì đó là thế giới riêng tư.
Trên trang thơ của mình
tôi chỉ trung thành
với nhịp đập
của chính trái tim tôi.
Khi bình thơ là đã bước vào một không gian khác. Đó là không gian của cuộc đối
thoại giữa người bình thơ và thi sĩ, có rất nhiều khán giả theo dõi. Để giữ cho
không khí của sân chơi vui vẻ, lành mạnh, một số lề luật, cung cách ứng xử cần
phải được tuân thủ; tuân thủ để tôn trọng thi sĩ, tôn trọng độc giả đang chú
tâm theo dõi.
Đối với cả hai ông Nguyễn
Khôi và Đỗ Hoàng tôi đều không quen biết, nhưng qua phong cách bình thơ tôi đã
thấy hai ông ngồi ở hai vị trí khác nhau trên chiếu văn chương.
Chỗ ngồi ấy chính hai ông
đã tự chọn bằng tài năng và cung cách ứng xử của mình.
PHẠM ĐỨC NHÌ
nhidpham@gmail.com
PHỤ LỤC
Dấu Chân Qua Trảng Cỏ
Buổi chiều qua trảng cỏ
voi
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Gió nghiêng ngả giữa màu xanh
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn như sợi chỉ giăng
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Dấu chân ai đọc nên vần
Nên nào ai biết đi gần đi xa.
Cuộc đời trải mút mắt ta
Lối mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường
Những người sốt rét đang
cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhoè?…
Chiếc bòng con đựng những
gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Mang bao khát vọng con người
Dấu chân nho nhỏ không lời không tên
Thời gian như cỏ vượt lên
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua
Ai đi gần ai đi xa
Những gì gợi lại chỉ là dấu chân.
Vùi trong trảng cỏ thời
gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta
Vẫn đằm hơi ấm thiết tha
Cho người sau biết đường ra chiến trường…
https://vonga1153.wordpress.com/2015/01/08/dau-chan-qua-trang-co-cua-thanh-thao-do-kem-toan-dien/
Kim Lũ Y
Khuyến
quân mạc tích Kim Lũ Y
Khuyến
quân tích thủ thiếu niên thì
Hoa
khai kham chiết trực tu chiết
Mạc
đãi vô hoa không chiết chi.
Đỗ
Thu Nương
Áo
Kim Tuyến
Khuyên anh đừng tiếc áo
thêu vàng
Khuyên anh nên tiếc thời
trẻ trung
Hoa nở đáng bẻ thì nên
bẻ
Đừng chờ hoa hết, bẻ
cành không.
*
http://www.vandanviet.com/2014/12/nguyen-khoi-kim-lu-y-tho-xua-ma-van-moi.html
Comments
Post a Comment