TRẢ LỜI CHÂU THẠCH VỀ “BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP”
TRẢ
LỜI CHÂU THẠCH VỀ “BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP”
Lời Nói Đầu
Nhận được bài Phản Biện Bài “Bình Thơ Không Thi Pháp” Của Phạm Đức Nhì – Bài viết
của Châu Thạch - từ Đặng Xuân Xuyến, Phú Đoàn sau khi đã đọc được bài này từ rất
sớm trên Facebook. Bài phản biện nhiều ý nên tôi sẽ trả lời từng ý một, từ trên
xuống dưới. Ngay dưới đây tôi đưa vào 2 cái links của 2 bài viết liên quan để độc
giả tiện theo dõi.
Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp:
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2018/03/binh-tho-khong-ban-thi-phap.html
Phản Biện Bài “Bình Thơ Không Bàn
Thi Pháp” Của Phạm Đức Nhì
http://www.bongtram.com/2018/04/phan-bien-bai-binh-tho-khong-ban-thi.html
1/
Châu Thạch Nhập Đề Và “Đá Giò Lái”
Vừa qua nhà thơ Phạm Đức Nhì có viết một bài “Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp”
trong đó ông kết tội Châu Thạch, Nguyễn Bàng và Bùi Đồng là đã bình thơ không
bàn thi pháp, theo lời ông là làm cho “thơ hay thơ dở đánh lộn sòng”.
Nhiều thi hữu điện thoại với tôi, nói rằng anh Nhì
muốn huậy để cho mình nổi danh thôi. Họ yêu cầu tôi cứ nín lặng vì ai đúng ai
trật thì đã có công luận phê phán. Việc anh Nhì huậy cho nổi danh thì tôi không
tin lắm vì anh đã có danh nhiều rồi, đem cái danh ấy mà tranh chấp với tôi, thứ
con dế dưới cỏ, thì chỉ tự hạ mình xuống chớ nổi con khỉ gì.
Tôi đã đồng ý nín câm luôn. Thế nhưng nghĩ đi nghĩ
lại anh Nhì muốn chém tôi mà không chịu chém thẳng, lại đem một thi sĩ thật hiền
hòa ở Tây Ninh ra chém mới thật là oan cho anh ấy. Thi sĩ Hà Nhữ Uyên, một người
tôi chưa từng quen biết, có thơ hay được thi hữu miền Nam mến mộ, lại bị anh
Nhì đặt vào cái cẩu đầu trảm chỉ vì cái tội là tôi đồng cảm với thơ anh ấy và
viết lời bình cho bài thơ “Thềm Xưa Em Đợi Người Về”. Bởi vậy tôi xin có đôi lời
phản biện để không phải bênh tôi mà biện hộ cho Hà Nhữ Uyên, người đã vì tôi mà
lên đoạn đầu đài.
Phạm Đức Nhì Trả Lời:
Anh Châu thạch không đi thẳng vào đề tài tranh
luận mà vòng qua, vòng lại rồi “đá giò lái” người đối luận với mình. Nói thật,
tôi không chấp cái trò trẻ con ấy. Riêng chuyện anh Hà Nhữ Uyên anh cũng nói đến
ở đoạn kết, đến đó tôi sẽ trả lời.
2/
Châu Thạch Phản Biện:
Anh Phạm
Đức Nhì nói Châu Thạch, Nguyễn Bàng, Bùi Đồng “chỉ bình tán ý tứ mà không bàn
thi pháp”. Vậy cái ý tứ đó có phải là “xử dụng vần, nhịp điệu, nối kết các con
chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp, cảm xúc” không nhỉ? Chẳng có
nhà thơ nào mà không xử dụng những cái ấy để đưa ý tứ của mình vào. Cho nên một
nhà bình thơ “bình tán ý tứ” của bài, chính là nhận xét cái tài “xử dụng vần,
nhịp điêu, con chữ” của họ hay đến đâu hoặc dỡ đến đâu.
Anh Nhì
nói chúng tôi “bình tán ý tứ không bàn thi pháp” là chính anh đã “đánh lộn sòng
con chữ” chớ không phải chúng tôi. Một bài thơ mà không có ý, tứ và không biết
xử sụng ý tứ đó cho hài hoà, độc đáo thì là bỏ. Khi chúng tôi khen một bài thơ
hay là chúng tôi khen tác giả có tài thi pháp, có ý tứ hay của thơ và có cả ý tứ
trong sáng tác để kết cấu bài thơ gây cảm xúc cho người.
Phạm Đức Nhì Trả Lời:
Anh Châu Thạch ơi! Rõ ràng là anh không bàn
thi pháp. Thì cứ nói thẳng ra là mình thấy nó vô bổ, vô ích (hoặc cũng có thể
anh không biết) nên không nói tới. Hà cớ gì lại nói quanh, nói co rồi nhận xằng
là mình bàn ý tứ tức cũng là bàn thi pháp? Anh nói vậy anh không hiểu gì về
“bàn thi pháp” rồi.
Bàn thi pháp là giải thích mối liên hệ nhân quả
giữa một bên là những “phương tiện thẩm mỹ”
được sử dụng trong bài thơ và bên kia là giá trị
nghệ thuật của bài thơ. Nói rõ hơn là việc sử dụng mỗi “phương tiện thẩm
mỹ” làm bài thơ hay hơn hoặc dở đi cỡ nào.
Thí dụ:
Sử dụng vần dầy đặc như trong bài thơ Thềm Xưa
Em Đợi Người Về khiến bài thơ có Hội Chứng Nhàm Chán Vần đọc lên rất “ầu ơ, ví
dầu”, nghe chán lắm, làm giảm giá trị bài thơ đi rất nhiều. Anh Châu Thạch không bàn thi pháp nên đã quên không nói đến
khuyết điểm đó.
Hoặc là:
Trong “Quê Nghèo” Đặng Xuân Xuyến đã có thể -
bằng kỹ thuật gieo vần và thay đổi số chữ trong câu - khiến tứ thơ chảy thành
dòng và cảm xúc cũng nương theo đó tuôn chảy và phát triển “sóng sau dồn sóng
trước”. Ngược lại, TXEĐNV của Hà Nhữ Uyên chỉ là 6 “hố thơ” riêng biệt. Anh Châu Thạch không bàn thi pháp nên đã “lờ tít” cái ưu
điểm quan trọng đó của Đặng Xuân Xuyến.
Bây giờ anh Châu Thạch đọc lại bài bình thơ của
mình lần nữa xem anh có bàn thi pháp không? Không bàn thi pháp thì cứ nhận là
không bàn thi pháp. Việc gì phài nói đông, nói tây, cãi chầy cãi cối cho rách việc.
Anh làm luật sư biện hộ mà giả bộ ngu ngơ kiểu
đó thì chỉ vài lần là mất bằng luật sư.
Theo tôi, anh Hà Nhữ Uyên nắm rất vững luật
thơ nhưng anh áp dụng việc gieo vần và đặt số chữ trong câu một cách quá chặt
chẽ - thật ra còn quá mức yêu cầu của luật thơ - nên hội chứng nhàm chán vần và
sự đều đặn của nhịp điệu làm bài thơ tụt hẳn điểm giá trị nghệ thuật.
Nhưng anh Châu Thạch không biết
điều đó, đem lối bình thơ “chỉ khen, không chê” vào múa may quay cuồng thêm nữa
nên bài thơ được nâng lên một tầm cao đến chóng mặt, vượt xa giá trị thực sự của
nó.
Trong khi Đặng Xuân Xuyến, cũng nắm vững luật
thơ nhưng đã áp dụng chúng một cách uyển chuyển nên dòng thơ của anh nhẹ nhàng,
thanh thoát hơn, dễ thấm vào hồn người hơn. Nhưng ông
Nguyễn Bàng bình thơ của anh lại không bàn thi pháp nên “kỹ thuật thơ”, “tài
thơ” của anh bị lờ đi, có cũng như không.
3/
Châu Thạch Phản Biện:
Phạm Đức Nhì chê:
Nhịp điệu: Mỗi câu 8 chữ, mỗi
đoạn 4 câu, đọc lên nhịp điệu đều đặn tẻ nhạt. Tác giả tự trói buộc mình trong
quy luật của thơ mới nên tâm thế, phong thái không được tự do.
Châu Thạch biện hộ:
Xin hãy đọc đoạn thơ trong
bài Ave Mari của Hàn Mạc Tử:
Như song lộc triều nguyên ơn
phước cả
Dâng cao dâng thần nhạc sánh
hơn trăng
Thơm tho bay cho tới cõi Thiên Đàng
Huyền diệu biến
thành muôn kinh trọng thể
Toàn bộ bài của Hàn Mạc Tử đều
mỗi đoạn 4 câu và mỗi câu 8 chữ. Bài thơ nầy đã trở thành bất hủ.
Phạm Đức Nhì Trả Lời:
Bài Ave Maria (không phải
Mari) của Hàn Mặc Tử có 62 câu mỗi câu 8 chữ nhưng vì gieo vần liên tiếp nên là
loại thơ nhất khí liền mạch, ý này nối với ý kia liên tục cho phép tứ thơ và cảm
xúc chảy thành dòng. Đây không phải là loại thơ Trường Thiên mỗi đoạn 4 câu.
Anh Châu Thạch
không quen để ý đến thi pháp nên đã nhận diện thể thơ “hơi bị sai”. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Quan trọng là dù nhất khí liền mạch
Ave Maria cũng mắc một chứng bệnh khá nặng: Hội Chứng
Nhàm Chán Vần, đọc lên rất ngán, rất buồn ngủ. Độc giả có thể đọc cả bài
thơ Ave Maria theo link dưới đây:
https://poem.tkaraoke.com/20539/ave_maria.html
4/
Châu Thạch Phản Biện:
Phạm Đức Nhì chê:
Vần: Vần gieo cả 1/3 lẫn
2/4 kỹ lưỡng (6 đoạn 12 cặp vần, không bỏ sót cặp nào), có nhiều cặp gieo chính
vận nên hội chứng nhàm chán vần rất nặng, đọc 2 đoạn đã thấy giọng “ầu ơ”. Thêm
vào đó, tác giả lại còn chơi cả yêu vận (vần lưng).
Phạm Đức Nhì xin được copy bài Thềm Xưa Em Đợi Người Về vào đây để độc
giả dễ theo dõi.
THỀM XƯA EM ĐỢI NGƯỜI VỀ
Em đợi người bên Thềm Xưa
trầm lắng
nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ
trên bàn
ly phin đá nhẩn nha từng
giọt đắng
nhặt hoài mong lạc mười
ngón tay đan.
Em khắc khoải đợi một dòng tin nhắn
thèm giật mình khi nghe tiếng
chuông reo
chiếc điện thoại cũng tảng
lờ im ắng
ném niềm vui như chiếc lá
bay vèo.
Mắt ngân ngấn “Người ơi” - em khẽ gọi
đợi tiếng người trầm ấm
phía bên kia
mà: “… rất tiếc, số này
không kết nối”
ngỡ trời tình ai thổi tắt
trăng khuya.
Buồn vây ráp đêm dài thêm sợi tóc
tựa vào đâu ấm áp một bờ vai?
em cố dặn: thôi đừng mau mắt khóc
dẫu muộn phiền có thể chẳng
nguôi khuây.
Người gieo lại nửa hồn
nghe ngơ ngẩn
nửa trên tay em bồng nắng
về rừng
như thạch thảo bên tường
mưa ướt cánh
nghe con chim góa bụa hót
rưng rưng.
Em khờ khạo xới lên miền cổ
tích
như mối đùn trăm nỗi nhớ về
nhau
khi yêu dấu môi hôn chưa
nhàm nhạt
ai cam tâm hờ hững tự khi nào?
HÀ NHỮ UYÊN
Châu Thạch biện hộ:
Mời đọc bài thơ “Trên Đường Về”
trong tập thơ Điêu Tàn của Chế lan Viên có 7 đoạn và 14 cặp vần gieo
1/3 lẫn 2/4 không bỏ sót cặp nào.
Xin đơn cử một đoạn thôi:
Đây những tháp gầy mòn vì mong
đợi
Những đền xưa đổ nát giữa thời
gian
Những sông vắng lê mình trong
bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên
than
Bài thơ nầy cũng cũng đã trở
nên biểu tượng của thơ.
Phạm Đức Nhì Trả Lời:
Trên Đường Về của Chế Lan
Viên có 8 đoạn mỗi đoạn 4 câu (bị thời đó kiểm duyệt 2 câu sau của đoạn đầu)
nên 7 đoạn sau có 14 cặp vần đúng như anh Châu Thạch nói. Với cách gieo vần đó
thì dù của Chế Lan Viên hay của “thi thần”, thi bá nào đi nữa, hội chứng nhàm
chán vần cũng làm người đọc ngán ngẩm, ngáp dài. Đọc bài phản biện của Châu Thạch,
bạn thơ một thời của anh là Nguyên Lạc, muốn bình luận nhưng đã bị anh “chặn”
nên có gởi cho tôi 2 đoạn nhận xét. Đây là đoạn đầu:
“Ha ha! Cái ông
thần Châu Thạch này! Tưởng rằng ông là nhà phê bình đầy hiểu biết, ai dè lại phải
đem những ông nhà thơ có tiếng trước ra để bảo vệ ý kiến mình. Chắc gì
các ngài ấy đã hoàn toàn đúng. Đúng sai cũng tùy thời, tùy lúc. Đâu phải cái gì
của người đi trước là không được phê phán, là cấm kị. Đừng lợi dụng tiền nhân
cho cái dục nhỏ hẹp của bản thân mình. Và cũng đừng đem tiền nhân ra HÙ, làm VŨ
MÔN chặn CÁ CHÉP trẻ hoá RỒNG (1)
Độc giả có thể đọc cả bài thơ Trên Đường Về
theo link sau đây:
https://baithohay.com/tren-duong-ve-che-lan-vien.html
Chế Lan Viên viết Trên Đường Về năm 1937. Bài
thơ lúc ấy được chú ý vì nó là đứa con tinh thần của một thiếu niên mới 17 tuổi
trong lúc Phong Trào Thơ Mới còn rất non trẻ. Tính đến nay (2018) đã 81 năm.
Ôi! Gần một thế kỷ trôi qua, bộ mặt của thơ đã đổi thay rất nhiều, trong đó thi
pháp cũng đã tiến triển vượt bực.
Vậy mà nhà bình thơ Châu Thạch - ở thời điểm
này - vẫn lấy bài thơ của 81 năm trước làm biểu tượng, làm mẫu mực để
ca tụng TXEĐNV, một bài thơ có vóc dáng giống hệt như được đúc từ một cái
khuôn. Nhìn cách lập luận của Châu Thạch để biện hộ cho
việc đánh giá quá cao bài thơ TXEĐNV mà thấy buồn, thấy tủi hổ cho giới bình
thơ, cho Thi Ca Việt Nam.
4/
Châu Thạch Phản Biện:
Phạm Đức
Nhì viết:
Dòng chảy
của tứ thơ: Bài thơ gồm 6 đoạn, mỗi đoạn 4 câu diễn tả một ý riêng biệt; từ đoạn
trước sang đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng
chảy.
Châu Thạch
biện hộ:
Đọc bài thơ Tràng Giang của
Huy Cân:
Sóng gợn
tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ
cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo giạt
về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp
mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Đọc bài
thơ Tràng Giang của Huy cận ta thấy có 4 đoạn, mỗi đoạn diễn tả không những một
ý riêng biệt mà còn một cảnh riêng biệt. Nhưng tất cả cũng chỉ mục đích là miêu
tả Trường Giang. Từ khổ thơ trước qua khổ thơ sau cũng không hề bắt vận. Ở đây
bài thơ “Thềm xưa em đợi người về” mỗi đoạn tỏ bày một tâm tư của em, và tất cả
cũng để nói lên nỗi lòng của người ngồi bên “Thềm xưa em đợi anh về”. Thiết tưởng
liên kết của các ý thơ còn sít sao và trôi chảy hơn Tràng Giang nữa.
5/
Châu Thạch Phản Biện:
Phạm Đức
Nhì viết:
Cảm
xúc: Cảm xúc tạo được ở đoạn nào nằm tại đoạn đó, không chảy thành dòng để có sự
tiếp nối “sóng sau dồn sóng trước” tạo cao trào, hình thành hồn thơ. Cảm xúc phần
lớn ở tầng 1 (câu, chữ hay), rất ít ở tầng 2 (thế trận), hoàn toàn không có cảm
xúc ở tầng 3 (cao hứng, nổi điên). Với vóc dáng này TXEĐNV chắc chắn không thể
có hồn thơ.
Châu Thạch
biện hộ:
Khổ 1:
Em đợi chàng với sự nóng lòng hiện lên trên cử chỉ
Khổ 2: Em khắc khoải mong chờ và giật mình mỗi khi tưởng có tin anh
Khổ3: Măt ngấn lệ, em gọi tên anh những đến trăng khuya cũng tắt.
Khổ 4: Em cố nhủ lòng thôi đừng phiền đừng khóc nhưng muộn phiền vẫn chẳng
nguôi khuây.
Khổ 5: Anh gieo vào lòng em nỗi sầu như hoa Thạch Thảo bên tường mưa ướt, như
con chim hóa bụa hót rưng rưng.
Khổ 6: Em khờ khạo nên để mối đùn trăm nối nhớ. Ngược lại anh thì cam tâm hờ hững
tự bao giờ.
Bài thơ
có một nối kết rõ ràng từ khổ 1 cho đến khổ 6. Cảm xúc “sóng sau dồn sóng trước’
và mỗi lúc một cao độ hơn. Cuối cùng tác giả dùng hình ảnh tổ mối đùn lên để
nói về nỗi nhớ thật là sống động đến độ tuyệt vời.
Phạm Đức Nhì Trả Lời 4+5:
Thể thơ, vần điệu và những phương tiện thẩm mỹ
khác của thi pháp chính là Con Kênh để cho tứ thơ lưu chuyển. Nhưng hai bài
Tràng Giang của Huy Cận và TXEĐNV của Hà Nhữ Uyên do chọn thể thơ Trường Thiên
(nhiều đoạn, mỗi đoạn 4 câu) nên không có Con Kênh mà chỉ có những “hố” riêng
biệt nằm cạnh nhau.
Nước hố này không thể tiếp cận nước hố kia thì
làm sao có dòng chảy? Không có dòng chảy thì làm sao có “sóng sau dồn sóng trước”?
Làm sao có cao trào? Làm sao có hồn thơ?
Viết theo thể thơ ấy, nói theo ngôn ngữ bóng
đá, khán giả không thấy được thế trận, đấu pháp toàn đội lưu chuyển một
cách sống động mà chỉ có những lần chơi bóng chết, những cú đá phạt. Hết cú đá
phạt này lại chuyển qua cú đá phạt khác, cũng lại bóng chết. Đá phạt dù có siêu
như Messi, từ xa hơn 30m bóng bay vào đúng góc trống của khung thành (có khi
đúng ngay mắt lưới mà người sút nhắm tới) thì cũng chỉ là phần kỹ thuật.
Cái đưa bóng đá lên hàng nghệ thuật làm khán
giả say mê là khả năng đi bóng, chuyền bóng, lên công về thủ theo một đấu pháp
hợp lý, sáng tạo và hiệu quả cộng với sự hưng phấn cao độ cùng ý chí quyết đấu
quyết thắng của cầu thủ.
Những thứ ấy những bài viết theo thể thơ Trường Thiên như Trên Đường
Về, Tràng Giang hay TXEĐNV không thể nào có được. (2)
6/
Châu Thạch:
Tóm lại
theo tôi, đây là một bài thơ hay. Mà dẫu tôi có bình sai, anh Phạm Đức nhì thấy
không hay thì cũng chẳng nên đem búa ra để đập bài thơ của một tác giả ra như
thế, mà lại phê phán quá bất công với nhà thơ ấy. Tôi thấy anh Nhì còn lấy những
tiêu chuẩn thơ của chính anh tự đặt như một vị thầy để chê thơ anh Phạm Đức
Tùng không phải là thơ nữa.
Phạm Đức Nhì Trả Lời:
Tôi chỉ có ý kiến với cách
bình thơ của 3 nhà phê bình Châu Thạch, Nguyễn Bàng, Bùi Đồng và các nhà bình
thơ không bàn thi pháp khác. Tôi đã bỏ công viết 2 đoạn khá dài để “tâm sự” với
2 tác giả của 2 bài thơ liên quan. Tôi chọn cách bình thơ nói thẳng, nói thật,
không nể nang, hay thì khen, dở thì chê nên cũng thường làm nhiều người phật ý.
Khi tác giả đem bài thơ ra
trình làng, nó như cô gái giữa chợ để ông đi qua, bà đi lại nhìn ngắm khen chê.
Có người khen nịnh, có người có điểm khen, có chỗ chê một cách công bằng trung
thực. Và dĩ nhiên, có người bươi móc, dè bỉu một cách ác ý. Tác giả bài thơ có
quyền phản biện. Độc giả bất bình cũng có quyền nhảy vào tranh luận. Tôi đụng
chạm tới 2 bài thơ được bình là bất khả kháng. Nhưng đó là quyền của tôi.
Một nhà bình thơ như Châu Thạch
mà lại buồn bực, chê trách tôi đụng tới bài thơ TXEĐNV của Hà Nhữ Uyên thì thật
là chả hiểu gì về quan hệ giữa sáng tác và phê bình hết. Rồi lại còn dám mở miệng
“chỉ xin anh nên xin lỗi nhà thơ Hà Hữu Uyên vậy” thì đúng là câu nói vô cùng bậy
bạ của một người không biết chuyện, thiếu suy nghĩ.
Còn việc tôi cho rằng bài Em
Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết của Nguyễn Đức Tùng (không phải Phạm Đức Tùng)
không phải là thơ thì tôi đã viết hẳn một bài chứng minh đầy đủ. Chính anh Nguyễn
Đức Tùng cũng không có ý kiến gì và đã chia sẻ bài của tôi về trang FB của anh ấy.
Tôi kính phục anh NĐT về thái độ dũng cảm chấp nhận sai sót của mình.
Câu nói của Châu Thạch:
“Tôi thấy anh Nhì còn lấy
những tiêu chuẩn thơ của chính anh tự đặt như một vị thầy để chê thơ anh Phạm Đức
Tùng không phải là thơ nữa”
có ý cho rằng tôi cả gan nói
liều và nói sai. Nếu Châu Thạch không đồng ý thì đưa chứng cứ ra, dùng lập luận
phê phán; tôi sẵn sàng thù tiếp. Anh phát biểu khơi khơi, không dẫn chứng kiểu
đó là một hình thức “chửi đổng”, không phải là thái độ của nhà phê bình đứng đắn.
Còn nữa, Châu Thạch nói tôi “chê
thơ anh Phạm Đức Tùng không phải là thơ nữa” là bao gộp một cách cẩu thả,
có thể gây ngộ nhận. Tôi chỉ cho rằng bài Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết của
NĐT không phải là thơ, chứ không đá động đến những bài thơ khác của anh ấy.
Anh Nguyễn Đức Tùng
sau đó có gởi cho tôi một email như sau:
Cám ơn
anh Phạm Đức Nhì rất nhiều – đã chú ý đọc và còn chịu khó diễn giải và bình luận.
Tôi nghĩ những bài viết của anh rất có ích cho độc giả và tác giả, dù bao giờ
cũng có khác biệt và tranh cãi. Nhưng như vậy mới là nghệ thuật, mới vui, còn
cái gì cũng đồng ý cả thì không có tiến bộ, phải không anh? Tôi dự định trong
vài năm tới sẽ xuất bản một tập thơ với những lời bình luận đặc sắc của bạn bè.
Mong sẽ có tiếng nói quan trọng của nhà phê bình Phạm Đức Nhì trong đó.
NGUYỄN ĐỨC
TÙNG: Nhà thơ, nhà văn.
7/
Châu Thạch:
Tôi nhớ trước đây trong
“Câu Chuyện Văn Chương” nhà thơ lớn Lê Mai Lĩnh có nói như sau:
“Thưa anh nhà thơ PHẠM ĐỨC
NHÌ:
Anh nói : TÔI DÀNH SỰ PHÁN XÉT SAU CÙNG CHO ĐỘC GIẢ
Vậy tôi đề nghị anh NÊN NÓI LỜI XIN LỖI VỚI ANH CHÂU THẠCH. Bài của nhà phê
bình CHÂU THẠCH rất HÀN LÂM, NGƯỜI LỚN.
Mặc dù anh đã HÀN GẮN NHỮNG VẾT ĐỤC ĐẼO lên PHO TƯỢNG TỐNG BIỆT HÀNH, những
sự MẤT MÁT VẪN CÒN, NIỀM ĐAU CŨNG CÒN.
Vậy anh nên viết bài tạ lỗi với độc giả của T.Vấn & Bạn Hữu, rằng anh đã chạm
vào tình cảm YÊU THƠ của họ dành cho THẦN TƯỢNG THÂM TÂM.”
Hôm nay Châu Thạch tôi
cũng xin dùng câu đó để nói lại với anh Phạm Đức Nhì nhưng không phải biểu anh
xin lỗi tôi hay xin lỗi anh Nguyến Bàng, Anh Bùi Đồng mà chỉ khuyên anh nên xin
lỗi nhà thơ Hà Nhữ Uyên vậy.
Phạm Đức Nhì:
Ông Lê Mai Lĩnh đã có lần cao hứng viết một
bài liên quan đến tôi có một số điểm không đúng. Tôi đã phản biện và ông đã
không trả lời. Chúng tôi đã hiểu ngầm coi đó là “chuyện đã qua”. Chính Nguyên Lạc,
bạn của LML và có một dạo là bạn văn chương của anh cũng nói:
"Châu Thạch chơi trò ‘bỏ
bóng đá người’ mới đem Nguyễn Đức Tùng (CT viết Phạm Đức Tùng) và LML vào bài
viết. Tôi có đọc về vụ LML. Ông này gia trưởng, nghĩ rằng mình là người đi trước, đàn
anh là có toàn quyền muốn nói gì là nói. Tôi thấy trong vụ tranh biện, ông LML
đã im lặng khi bị anh phản biện.
Anh phê bình cách bình thơ của
Châu Thạch rất chính xác." (1)
Giờ nhắc lại chuyện xưa anh chỉ đưa ra đoạn
“nói sai” (mà anh tưởng là đúng?) của ông LML mà ém đi đoạn trả lời của tôi. Đó
là kiểu lươn lẹo, “ma giáo” cần thiết để tranh lợi, tranh thắng trong những môi
trường khác, không hợp với chỗ tranh luận văn chương. Có một bài viết mà phải mấy
lần “kéo áo” anh về thái độ lịch sự, lương thiện trong tranh luận văn chương.
Thật chán.
(Muốn hiểu rõ đầu đuôi độc giả có thể đọc bài
Văn Chương Đâu Phải Là Đơn Thuốc theo link sau đây:
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/06/van-chuong-au-phai-la-on-thuoc.html
Sau này anh Lê Mai Lĩnh đã có một
mẩu đối thoại ngắn với tôi trên Facebook:
(Sau cuộc tranh luận về bài thơ Tống
Biệt Hành)
Tôi còn nợ anh món nợ TỐNG BIỆT
HÀNH, nghĩa là sau nầy nghĩ lại, tôi thiển cận, nghĩa là anh ĐÚNG tôi SAI
.
Hì hì
Nhi Pham Le Mai Linh: Còn
vụ Tống Biệt Hành, chúng ta “bắt tay” cho vui vẻ.
Tôi cũng thích lối phản biện văn chương của anh – rõ ràng, mạnh mẽ và “độc”.
OK. Bắt tay. Cảm ơn anh.
Lâu nay tôi vẫn lấn cấn đó.
Tóm lại, bình thơ không bàn thi pháp thường mắc
những sai phạm sau đây:
1/ Đối xử với bài thơ
như một đoạn văn, không hơn, không kém. Chỉ bình tán ý tứ mà quên Kỹ Thuật
Thơ. Chỉ trả lời câu hỏi “Viết cái gì?” (What?) mà quên 2 câu hỏi quan trọng
khác “Viết thế nào?” (How?) và “Viết trong tâm thế nào?” (In what state of
mind?)
2/ Bất công.
a/ Những bài thơ
yếu kém về mặt thi pháp thì những điểm yếu kém không bị nhắc tới, làm giá trị
bài thơ tự nhiên như được một bàn tay vô hình nâng lên một cách bất công. Tệ hại
hơn nữa là nhà phê bình đã thổi vào hồn tác giả một niềm tự hào thiếu căn
cứ để nảy sinh tâm lý tự mãn; thi sĩ quanh
đi quẩn lại, bì bõm trong vũng sình lầy lội mà cứ ưỡn ngực như đang đi trên đại
lộ thẳng hướng Bến Bờ Thi Ca.
b/ Những bài thơ
vững vàng, tiến bộ về mặt thi pháp thì những bước chân khai phá ấy cũng bị lờ
đi, ảnh hưởng đến việc nhìn nhận giá trị của bài thơ. Người nỗ lực học hỏi và may mắn có được những bước
chân khai phá đi đúng hướng bến bờ thi ca như thế thì vì không có người biết chuyện chia sẻ, thông cảm, khuyến
khích nên tâm trạng nửa tin, nửa ngờ, chân ngập ngừng, vừa bước vừa run; nếu bất
ngờ đụng phải một trở ngại nhỏ cũng dễ dàng bỏ cuộc.
Kết Luận
Đọc Châu Thạch, rất
nhiều độc giả (có cả tôi) công nhận anh là người đam mê, có lòng với văn chương
và viết rất khỏe. Những bài bình thơ của anh, như từ một gia đình mắn con, cứ
lũ lượt ra đời. Anh đem kinh nghiệm sống dầy dặn của mình vào những lời bình
tán rất có duyên. Anh có cái “tật” là bình thơ chỉ khen, không chê. Trong trao
đổi riêng, và cả trong tranh luận, tôi thỉnh thoảng cũng nhắc khéo anh điều
này. Có lần anh nói với tôi nửa đùa nửa thật: “Anh mới là bình thơ, còn tôi chỉ
là nịnh thơ thôi”.
Riêng thi pháp,
nói thì đao to búa lớn, về mặt thực dụng, thật ra là hình thức thơ, kỹ thuật
thơ hoặc cách thi sĩ áp dụng (hay không áp dụng) “luật tắc” trong bài thơ của
mình. Giữa mỗi “phương tiện thẩm mỹ” trong thi pháp đều có mối liên hệ nhân quả
với cái hay, cái đẹp của cách diễn đạt ý tứ, nói khác đi, là giá trị nghệ thuật
của bài thơ. Châu Thạch và một số những người bình thơ không bàn thi pháp khác
đã chỉ tán cái “quả” mà quên cái “nhân”, quên trả lời câu hỏi “Tại sao lại có
cái quả đẹp (hay xấu) như vậy?”
Bình thơ kiểu ấy
là giết chết “tính thơ” của bài thơ. Nghĩa là giết chết thơ.
Phạm Đức Nhì
CHÚ THÍCH:
1/ Cám ơn anh
Nguyên Lạc đã cho phép tôi được đưa 2 đoạn nhận xét của anh vào bài viết này.
2/ Có những bài
tứ thơ được dàn trải theo thứ tự thời gian. Lúc ấy dòng chảy của tứ thơ cũng là
dòng thời gian. Nhưng cảm xúc cũng vẫn bị phân tán, không thể tạo cao trào, không
thể có hồn thơ. Ông Đồ của Vũ Đình Liên là một thí dụ.
Comments
Post a Comment