LỖI TẠI AI?
LỖI TẠI AI?
Hai Câu Hỏi
Có một bạn đọc yêu thơ
trên FB nhắn tin, đặt cho tôi hai câu hỏi:
1/ Nếu sau tứ thơ có ẩn ý
của tác giả mà mình là người đọc không cảm nhận được thì do lỗi của ai? Của tác giả hay của người đọc?
2/ Trên quãng đường đi tiếp
để tìm “thông điệp kín” sau khi đã "bắt" được tứ thơ, nếu liên tưởng
của mình không đến cùng chỗ với tác giả thì điểm đến của ai đúng?”
Để trả lời hai câu hỏi rất
xác đáng ấy tôi sẽ giới thiệu một bài thơ có “thông điệp kín” của tác giả (hidden
message) để cùng bạn đọc thảo luận.
Với những bài thơ không có
Ẩn Dụ hoặc một biện pháp tu từ nào khác thì Tứ cũng là Ý. Bước chân vào “điểm đến
của tứ thơ” là người đọc có quyền ung dung ngơi nghỉ. Ngài đã bắt được thông điệp
mà tác giả muốn gởi đến ngài qua bài thơ.
Ngược lại, với bài thơ có ẩn
ý của tác giả, khi người đọc vào “điểm đến của tứ thơ”, nếu muốn, ngài có quyền
thả hồn đi tiếp. Và cái hay, cái đẹp thực sự của bài thơ, cái đem lại cho người
đọc rất nhiều khoái cảm thường tụ hội ở đoạn đường đi tiếp ấy.
Thí dụ:
SÔNG LẤP
Sông xưa rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng
ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên
tai
Giật mình còn tưởng tiếng
ai gọi đò.
(Trần Tế Xương)
Dựa vào 2 câu cuối của bài
thơ tôi có thể suy luận ra mấy điều sau:
a/ Khúc sông Vị Hoàng chảy qua khu nhà của
Tú Xương thuộc làng Vị Xuyên không có cầu bắc qua sông. Muốn qua sông phải đi đò.
b/ Nhà ông Tú không xa bến đò ngang lắm,
có thể nghe được tiếng gọi đò vọng lại.
c/ Ông rất nặng lòng với khúc sông đầy kỷ
niệm, với quãng đời lúc con sông chưa bị lấp, đến nỗi chỉ “vẳng nghe tiếng ếch
bên tai” ông cũng giật mình tưởng tiếng gọi đò từ những năm xưa cũ.
Nhưng nếu “vẳng nghe tiếng
ếch bên tai” mà người đọc chỉ tưởng “tiếng ai gọi đò” để từ đó nhớ đến bến đò
ngang cạnh nhà ông và rồi đến con sông Vị Hoàng ngày xưa (nay đã bị lấp) thì …
bất công với Tú Xương quá. Nếu dòng liên tưởng chỉ dừng ở đấy thì bài thơ đã bị
giảm rất nhiều giá trị nghệ thuật. Nếu chỉ có thế người ta đâu có gọi bài thơ Sông
Lấp là “tiếng thở dài thế sự” của Tú Xương.
Dĩ nhiên, ông cũng nhớ đến
con sông mà vợ ông đã “quanh năm buôn bán” ở đó để nuôi sống một gia đình đông
đúc “năm con với một chồng”. Nhưng con sông còn đóng vai chiếc cầu để ông trở về
cái thời tạm gọi là vàng son của ông, cái thời còn ngồi chiếu tiên chỉ của làng
Vị Xuyên, cái thời mà mọi người gọi ông là Ông Tú với giọng kính trọng một nhà
nho có văn tài, cái thời ông còn tràn trề hy vọng khi nghĩ đến kỳ thi sắp tới,
và trong lòng vẫn thanh thản nhìn quê hương đất nước an bình.
Còn lúc ông viết bài thơ Sông
Lấp, ách cai trị của người Pháp đã lan tỏa, đã xâm nhập vào mọi ngõ ngách của
cuộc sống người dân Việt, nền Nho học đang lụi tàn, con đường tương lai của ông
đang đi vào ngõ cụt. Ông đành quay lại nhìn, nuối tiếc cái thời xa xưa ấy để rồi
buông “tiếng thở dài thế sự”.
Cái thú khi đọc một bài
thơ có phép ẩn dụ – tác giả nói về cái này mà ngụ ý cái kia – là lần theo tứ
thơ để tìm, để khám phá ý của tác giả. Phép ẩn dụ càng kín thì - khi người đọc,
bằng khả năng liên tưởng của mình, hiểu được, cảm thông được tâm tình mà tác giả
muốn chia sẻ - sự ngạc nhiên và thích thú càng gia tăng, bài thơ càng được đánh
giá cao.
Phép ẩn dụ trong Sông Lấp
rất kín, kín đến nỗi ngay cả có người bình bài thơ ấy cũng không thấy được, cảm
được ẩn ý của tác giả. Phép ẩn dụ ấy được kết hợp một cách tài tình với thủ
pháp “Show, Do Not Tell”, tạo ra một chuỗi những chiếc cầu liên tưởng, dẫn người
đọc đi từ hình tượng này đến hình tượng khác.
Từ tiếng ếch kêu, trong
hoàn cảnh riêng của mình, trong tâm tình riêng của mình, nhà thơ “tưởng tiếng
ai gọi đò”. Đây là một liên tưởng rất riêng tư; nếu ông không bộc bạch, bày tỏ
thì người đọc khó có thể đoán ra được. Biết thế nên ông đã đưa tay dắt chúng ta
bước lên chiếc cầu đầu tiên.
Đến 2 chiếc cầu liên tưởng
kế tiếp thì người đọc đã có thể tự mình qua được. Từ tiếng gọi đò nhớ bến đò
ngang, từ bến đò ngang nhớ con sông Vị Hoàng ngày xưa, nay đã bị lấp.
Khi từ con Sông Lấp đặt
chân lên chiếc cầu sau cùng, bằng vốn kiến thức về lịch sử, văn học sử, cộng với
một chút trực giác thi ca, người đọc sẽ bắt gặp nỗi lòng sâu kín của nhà thơ: Nhớ
thương, tiếc nuối cái thời tạm gọi là vàng son của mình, cái thời Nho học vẫn
còn chỗ đứng khá trang trọng trong đời sống người dân Việt. Và người đọc sẽ
tròn xoe mắt “À” lên một tiếng khoái trá.
Lời Bàn:
Nếu bạn hiểu rằng qua bài
thơ, tác giả bày tỏ “nỗi tiếc nhớ con sông Vị Hoàng (nay đã bị lấp) đã cùng với
gia đình ông trải qua một quãng đời đầy kỷ niệm” thì bạn đã bắt được tứ thơ. Chức
năng truyền thông của bài thơ đã thành công. Bạn – cũng như một số người đọc
khác – nếu không đủ nhạy cảm để thả hồn đi tiếp cũng là chuyện thường tình, “không
phải tại anh cũng không phải tại em”. Tác giả và người đọc đều hoàn thành nhiệm
vụ. Chả ai có lỗi cả.
Nếu hồn thơ của bạn đến được
chỗ ông Tú Vị Xuyên “nhớ thương, tiếc nuối cái thời Nho học vẫn còn chỗ đứng
khá trang trọng trong đời sống người dân Việt” thì bạn đã hiểu trọn vẹn cả tứ lẫn
ý của bài thơ. Với tôi, độ nhạy cảm và trình độ thưởng thức thơ của bạn rất
đáng nể.
Còn nếu bạn suy nghĩ khác
người, cho rằng “Ông Tú bàng hoàng nhớ đến con sông nhiều kỷ niệm vì đã có mối
tình với một 'Cô Đầu' nào đó ở cạnh bờ sông” thì đó cũng là quyền của bạn.
Nhưng khi bạn bộc lộ suy nghĩ khác người đó trong một cuộc đối thoại văn chương
bạn sẽ bị coi là “nói không có căn cứ, gốc rễ”, đi lạc ra ngoài “vùng phủ sóng”
của tứ thơ.
Đi Thẳng Hay Đi Vòng?
Làm thơ có 2 đường: Đi thẳng
và đi vòng. Đi thẳng là nói thẳng vào điều muốn nói, có nghĩa là Tứ với Ý là một.
Đi vòng có 2 cách (tôi gộp lại trong 2 cách thường dùng nhất để khỏi lan man):
1/ Ẩn dụ: Nói cái này mà
ngụ ý cái kia - Tứ là cái này, Ý là cái kia.
2/ Show, Do Not Tell (Gợi,
Không Kể): Không nói thẳng mà cung cấp thông tin để người đọc dựa vào đó, nương
theo đó hiểu được ý mình muốn nói.
Dĩ nhiên, đi thẳng dễ hơn
đi vòng. Đi thẳng giống như đánh bài cào, ngửa mặt nút lớn, nút nhỏ là biết ăn
thua. Đi vòng - giống như chơi xì phé, phải để ý, theo dõi con bài tẩy và phải
chờ khi lật con bài tẩy lên thì mới biết kết quả. Đi vòng có cái lợi là làm cho
người đọc khoái hơn, đọc hứng thú hơn nên thi sĩ có tay nghề kha khá thường chọn
cách này.
Kết Luận
Người thưởng thức thơ sành
điệu đều biết Ẩn Dụ càng kín bài thơ càng hay; với Show, Do Not Tell dữ kiện
cung cấp càng ít lúc hiểu ra niềm sảng khoái càng cao. Nhưng coi chừng “già néo
đứt dây”. Ẩn dụ kín quá đến mức ai cũng lắc đầu không hiểu là bài thơ thất bại.
Thi sĩ áp dụng Show, Do Not Tell mà Show “kẹo” quá khiến người đọc giơ tay đầu
hàng vì không thể Hiểu được thì bài thơ cũng vứt đi.
Làm thơ, tâm trạng là của
mình, chỉ cần biết đến mình. Nhưng bày tỏ tâm trạng để người đọc hiểu mình, (có
thể) đồng cảm với mình thi sĩ phải hé mở cánh cửa đến bến đỗ của tứ thơ. Đó là
chức năng truyền thông của bài thơ. Không có nó bài thơ sẽ chết.
Phạm Đức Nhì
Xin đón đọc bài kế tiếp, sẽ trả lời câu hỏi 2.
Comments
Post a Comment