THƠ PHE KIẾM TÔNG
THƠ PHE KIẾM TÔNG
Từ “Tiếu Ngạo Giang Hồ” Của Kim Dung
Thuở còn mài đũng
quần ở Trung Học tôi cũng thường đọc truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Trong “Tiếu
Ngạo Giang Hồ” có chi tiết về Phái Hoa Sơn sau đây làm tôi chú ý:
“Phái Hoa Sơn có hai trường phái tranh chấp
nhau là phe Kiếm Tông lấy chiêu thức kiếm thuật làm trung tâm, phe Khí
Tông lấy việc rèn luyện nội công làm điểm mạnh. Hai phe phái này từng gây mâu thuẫn
cực điểm trong quá khứ và tạo một cuộc chém giết đẫm máu khiến cho nhiều nhân
tài phái Hoa Sơn bị tiêu diệt.”
Sau này khi chơi
thơ tôi đã lấy “hai trường phái tranh chấp nhau” đó đặt tên cho “hai cách làm
thơ” hay cũng có thể gọi là “hai hướng đi của thơ”. Hai cách làm thơ đó là:
Phe Kiếm Tông - Chú trọng Kỹ Thuật, “Chiêu Thức”
Và
Phe Khí Tông: Chú trọng Cảm Xúc.
Sau đây là bài viết về PHE KIẾM TÔNG
LÀM THƠ THEO PHE KIẾM TÔNG
Thi sĩ thường làm thơ ngắn (4 câu), hoặc chọn
thể Thơ Mới Trường Thiên phân mảnh đứt đoạn - nhiều đọan, mỗi đoạn 4 câu – (Thơ
Haiku cũng thuộc loại này).
Để chinh phục độc giả thi sĩ dựa vào ý tứ,
câu chữ, ngôn ngữ hình tượng, các thủ pháp kỹ thuật, các biện pháp tu từ nên
tâm tình của Ngài về ý thì thường sâu sắc, ấn tượng, về hình thức thì rất mượt
mà trong nét đẹp văn chương.
Vì bài thơ ngắn - còn nếu dài thì phân mảnh đứt
đoạn - nên tứ thơ không có dòng chảy, cảm xúc hố nào nằm im ở hố đó, không có
“sóng sau dồn sóng trước”, không có cao trào, không có hồn thơ.
Thí dụ 1
SÔNG LẤP
Sông xưa rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
(Trần Tế Xương)
Cái hay nhất của
Sông Lấp, có thể tôn giá trị của bài thơ lên nhiều nhất, là phép ẩn dụ. Đúng
hơn phải nói là sự kết hợp tài tình giữa thủ pháp “Show, Don’t Tell” (Gợi,
Không Kể) và phép ẩn dụ để diễn đạt ý của tác giả.
Tiếng ếch giữa đêm khuya đã khiến
ông giật mình thảng thốt nhớ đến bến đò cũ, con sông xưa, và rồi từ con sông ấy
đã quay lại để thương, để nhớ, để tiếc một quãng thời gian đầy kỷ niệm của đời
mình – cái thời Nho Học vẫn còn chỗ đứng khá trang trọng trong đời sống người
dân Việt.
Ẩn dụ đa tầng:
Tiếng ếch gợi nhớ bến đò (“tiếng
ai gọi đò”)
Bến đò gợi nhớ “con sông bị lấp”
“Con Sông Lấp” gợi nhớ nền Nho Học
lụi tàn.
Thủ pháp Show, Don’t Tell (Gợi, Không Kể) kết
hợp với phép ẩn dụ thật tuyệt vời.
Hơn nữa, bài thơ có câu cú gọn chắc, ngôn ngữ
bình dị nhưng “đắt” (đặt rất đúng chỗ), vần lục bát vừa độ ngọt nên có thể nói,
về mặt kỹ thuật, đây là bài thơ toàn bích.
Về mặt kỹ thuật thì không chê vào đâu được
nhưng hồn thơ thì vắng bóng. Lý do: Bài thơ
không đủ dài, tứ thơ mới “chảy” một đoạn ngắn đã “hết nước”, không có “sóng sau
dồn sóng trước”, không tạo được cao trào.
Thí dụ 2
TRÀNG GIANG
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Huy Cận
(Tặng Trần Khánh Giư)
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tràng Giang được viết theo thể Thơ Mới Trường
Thiên phân mảnh đứt đoạn. Bài thơ có 16 câu được ngắt thành 4 đoạn, mỗi đoạn là
một cảnh thơ đẹp và buồn.
Tứ thơ là tâm trạng của thi sĩ khi đứng ngắm dòng
sông quê hương (sông Hồng).
Chỉ mới đưa mắt nhìn dòng sông
Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
thì những hình tượng từ 12 câu thơ khác tự nhiên
chạy đến tụ họp, tạo thành những bức tranh quê gần gũi, nên thơ, tương hợp với
tâm tình cô đơn, buồn bã của
thi sĩ.
Cái “Siêu” của bài thơ là ngôn ngữ, hình tượng
để tả cảnh, đẹp một cách cao sang nhưng cũng cho phép nỗi buồn bã cô đơn của thi sĩ nhập vào để từ từ thấm sang người đọc.
Tràng Giang có hai đoạn gieo vần gián cách (đoạn
1 và đoạn 4) ở cuối câu 2, câu 4. Hai đoạn 2 và 3 gieo vần liên tiếp. Có sự
chuyển đổi trong cách gieo vần này đã giúp giảm thiểu khá nhiều “hội chứng nhàm chán vần. Tuy nhiên, câu
nào cũng 7 chữ cứng ngắc nên nhịp điệu đều đều, tẻ nhạt vẫn hiện diện rất rõ nét.
Khuyết
điểm quan trọng của Tràng Giang năm ở chỗ chọn thể
thơ. Thơ Mới Trường Thiên phân mảnh đứt đoạn khiến tứ thơ không thể chảy thành
dòng. Những mảnh tâm trạng của ông, về mặt ý thì có vẻ gần gũi nhưng về mặt “nối
kết âm điệu” thì lại xa cách. Cũng buồn bã cô đơn nhưng mỗi mảnh tâm trạng lại
nằm riêng một “hố”.
Không có dòng chảy tứ thơ, không có dòng âm điệu
nên cũng không có dòng cảm xúc, không có “sóng sau dồn sóng trưóc”, không có
cao trào. Kết quả là không có hồn thơ.
Trên Internet một giáo viên dạy Văn, khi soạn
bà mẫu cho học sinh đã kết luận:
Tràng Giang là bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa
chất đường thi cổ điển và chất hiện đại của phong trào Thơ Mới. Đây không phải
“kiểu bình cũ rượu mới” mà là sự kế thừa và tiếp thu hết sức tinh tế của ông. Với
bài thơ này, ta thấy được một Huy Cận với vốn hiểu biết uyên thâm, nội lực dồi
dào. Đằng sau những vần thơ ấy còn là lòng yêu nước thâm trầm mà sâu sắc.
Tôi không phủ nhận “tay nghề” cao siêu của Huy
Cận thể hiện trong bài thơ Tràng Giang. Nhưng nếu muốn nói như Hoài Thanh “Lấy
hồn ta để hiểu (cảm) hồn người” thì “hồn người” ở
đây lại không có.
Thí dụ 3
TA VỀ
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi
Tôi tạm giới thiệu vài đoạn. Độc giả có thể đọc
cả bài theo link sau đây:
https://www.thivien.net/T%C3%B4-Thu%E1%BB%B3-Y%C3%AAn/Ta-v%E1%BB%81/poem-fxCCFn0pRiRvduZHEmZWEw
Ta Về có hình thức của Thơ Mới Trường Thiên, phân mảnh đứt đoạn. Bài thơ gồm
124 câu, chia làm 31 đoạn. Mỗi đoạn 4 câu, mỗi câu 7 chữ, có thể đứng độc lập
như một bài thơ ngắn, có nét đẹp văn chương cao sang, diễn tả một mảnh tâm trạng
của tác giả một cách hoàn chỉnh, ý nghĩa cô đọng và súc tích.
Trong số 31 đoạn thơ có 30 đoạn được gieo vần
bằng gián cách ở câu 2 và câu 4. Nghĩa là chữ cuối câu 2 và chữ cuối câu 4 đều ở
vần bằng và hiệp vận với nhau. Chữ cuối câu 1 và chữ cuối câu 3 ở vần trắc và
thường không hiệp vận.
Thí dụ:
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
Chỉ có một đoạn gieo vần bằng, liên tiếp:
Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn khua từng nỗi xót xa
Còn 4 cách gieo vần khác của Thơ Mới Trường
Thiên đều không được xử dụng.
Chính vì chỉ có hầu như một cách gieo vần nên
“hội chứng nhàm chán vần” trong bài thơ rất nặng nề, rõ nét. Nhạc điệu các đoạn
đều na ná giống nhau. Cố gắng lắm đọc đến đoạn thứ 10 là đã cảm thấy chán, mắt
đã muốn nhíu lại.
Trong mỗi đoạn thơ người đọc đều cảm thấy hơi
nóng của cảm xúc nhưng vì không được liên kết, nối tiếp nhau, nên ở cuối bài
không có sức nóng tổng hợp. Hạc Bút Ông trong phần đầu của bài Ta Về, Thơ Tô
Thùy Yên đăng trên trang Thơ Hà Huyền Chi đã viết:
“Ta Về, 124 giòng cuồng lưu, chảy miết trong thơ.”
Ý Hạc Bút Ông muốn nói:
“Ta Về, 124 dòng cảm xúc mạnh của
tác giả, chảy miết trong thơ.”
Tôi hoàn toàn không đồng ý. Ta Về có 31 đoạn, 124 câu; mỗi đoạn
là một ý thơ hoàn chỉnh, diễn tả một mảnh tâm trạng của tác giả, tạo ra và chuyển
tải một khối lượng cảm xúc đến đọc giả.
Còn câu (line)
chưa phải là một đơn vị chuyển tải cảm xúc nên không thể là một “dòng cuồng
lưu” được. Hơn nữa, do đặc tính của thể thơ, trong Ta Về không có dòng cảm xúc.
Với tài năng sử dụng ngôn từ điệu nghệ, tạo được nhiều hình ảnh đẹp, sống động,
Tô Thùy Yên đã bơm vào mỗi đoạn thơ, và qua thơ, đến độc giả một khối lượng cảm
xúc đáng kể.
Nhưng cảm xúc được tạo ra ở đâu chỉ nằm yên ở
đó - cuồn cuộn quanh quẩn trong cái hố, cái vũng của mình. Không có con kênh nối
liền các hố, các vũng với nhau, không có dòng chảy của thơ, và do đó, không có
dòng cảm xúc.
Cảm Nhận Khi Đọc “Ta Về”
Đọc Ta Về, tôi tưởng tượng Tô Thùy Yên như một người khổng lồ đeo trên lưng một
bọc lớn đựng đầy cảm xúc. Đáy bọc có một cái vòi, có valve để có thể đóng mở
theo ý muốn. Thế rồi thi sĩ của chúng ta tay cầm xẻng đào hố, tay cầm vòi, mỗi
hố lại mở valve xịt vào một ít cảm xúc. Được 31 hố thì buông xẻng ngửa mặt lên
trời than rằng:
“Ôi! Bọc cảm xúc còn nhiều quá mà ta không còn đủ thời gian (và sức) để đào hố
nữa rồi.”
(“Ta
tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.”)
Đọc Ta Về của Tô Thùy Yên người đọc sẽ lững thững đi tới từng chiếc hố – cả 31
hố, hố nào cũng đẹp – để thưởng thức đường nét tinh xảo của từng nhát xẻng, màu
sắc đẹp đẽ, sang trọng pha lẫn chút kiêu sa của cái khối cảm xúc ở trong hố, để
thấy khối cảm xúc đó sóng sánh như muốn trào lên miệng hố.
Tô Thùy Yên, qua Ta Về, đã chú trọng rất nhiều đến các đoạn thơ. Tâm huyết của
ông đổ vào cho việc tuyển chọn ngôn từ, tạo dựng hình ảnh. Ông cho rằng: “…một
bài thơ dài thành công, tức không bị sa lầy vào sự phân giải lắm lời, phải là
một bài thơ mà mỗi đoạn ngắn của nó, nếu như được tách riêng ra, đã có đầy đủ
cường độ của một bài thơ hoàn chỉnh.” (Vài Suy Nghĩ Về Thơ Vần, dactrung.net).
Mỗi đoạn của Ta Về – đúng vậy – nếu tách riêng ra “đã có đầy đủ cường độ của
một bài thơ hoàn chỉnh.” Không những hoàn chỉnh mà còn rất hay, không một chút
tì vết. Nhưng gộp 31 đoạn thơ lại ta chỉ có 31 hố thơ, 31 vũng thơ chứ không có
một dòng thơ, như một dòng suối, dòng sông, biểu lộ dòng cảm xúc của tác giả.
Và kết
quả là dù bài thơ trông rất đồ sộ, lực lượng câu chữ hùng mạnh vẫn thất bại
trong nỗ lực tạo hồn thơ.
Kết Luận
Sông
Lấp, Tràng Giang, Ta Về tuy độ ngắn dài khác nhau nhưng đều được ca tụng là những tuyệt tác
thi ca. Nhưng vì được viết theo phe Kiếm Tông, thiên về chiêu thức, kỹ thuật nên
mặc dù ý tứ sâu sắc, nét đẹp văn chương đã đến mức thượng thừa vẫn không tạo được
dòng tứ
thơ, dòng âm điệu nên không có dòng cảm xúc.
Và không có hồn
thơ.
Comments
Post a Comment