HƯỚNG ĐI MỚI CỦA THƠ

Phần1: Nhận Diện Thơ

Gồm 4 bài:

1/ Góp Ý Với Cuộc Đối Thoại "Thế Nào Thì Gọi Là Thơ

2/ Thơ Con Cóc Có Phải Là Thơ?

3/ Về "Bài Thơ" Đồng Dao Cho Người Lớn

4/ Trao Đổi Với Bác Vũ Nho



Bài 1


GÓP Ý VỚI CUỘC ĐỐI THOẠI "THẾ NÀO THÌ GỌI LÀ THƠ?"            


Ông Nguyễn Khoa Điềm viết trên blog Quê Choa:

Lập thân mến,
Mình có xem bức chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp do Hà Vũ mới vẽ tặng Đại tướng nhân dịp ông tròn 100 tuổi. Bức tranh đẹp, rất xúc động. Mình có làm bài thơ gửi trang mạng “Quê... Đại tướng” của Lập.
Chúc an vui. 
NKĐ

BỨC CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH GIÀ

(Có bức chân dung nhưng máy tôi không tải được)

Những giọt nước mắt
Thật buồn
Thật lặng lẽ
Trước bức chân dung
Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi
Của một người tù.

Trận chiến Lịch Sử
Đã phá tung mọi xiềng xích?
Người họa sĩ trẻ
Từ sau song sắt
Vẫn bình tâm
Dành lòng biết ơn
Không dứt
Cho một người lính già.
19.9.2011
Nguyễn Khoa Điềm

Đỗ Trung Quân bình:

Bức chân dung của đại tướng Võ Nguyễn Giáp được vẽ bởi một tay thực sự chuyên nghiệp. Anh Cù Huy Hà Vũ. Anh rất có tài!
Bài thơ của ông Nguyễn Khoa Điềm, rất tiếc phải nói thật lòng, xin ông đừng giận. Đấy chỉ là những dòng “cảm tưởng có vần”, thường thấy ghi trong những sổ cảm nghĩ đám ma hay đám cưới.
Thưa ông!
Nó không phải là thơ ạ!

Thế rồi lại đọc bài tiểu luận Thế Nào Thì Gọi Là Thơ? của Phan Quỳnh Trâm với Lời Nói Đầu như sau:

[Đọc bài “Thưa, chỉ là cảm nghĩ có vần...” của nhà thơ Đỗ Trung Quân, tôi không có ý kiến gì về bức tranh của Cù Huy Hà Vũ, về bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm và về nhận xét của nhà thơ Đỗ Trung Quân đối với bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Tuy nhiên, tôi chỉ băn khoăn về câu khẳng định “bài thơ ấy không phải là thơ”. Tôi cũng đã nghe nhiều người nói như vậy trong những hoàn cảnh và với những mục đích khác nhau.]

Chị giải thích một lúc rồi trích dẫn đoạn thơ:

Những nhà thơ trẻ:
Hãy viết bất cứ cách nào bạn thích
Quá nhiều máu đã chảy dưới cầu
để còn tiếp tục tin
rằng chỉ có một con đường là đúng.
Trong thơ mọi sự đều được phép.
(Nicannor ParraHoàng Ngọc-Tuấn dịch)

có ý muốn nói trên trang thơ của mình thi sĩ được hoàn toàn tự do phóng bút. Câu hỏi "Thế Nào Thì Gọi Là Thơ?" vẫn là một nỗi băn khoăn, chưa có câu trả lời.
Cuối cùng chị chỉ khẳng định lại nỗi băn khoăn của mình.

"Tuy nhiên, có thể nói tóm lại, Phân biệt thế nào là thơ, thế nào không phải là thơ là một điều cực kỳ phức tạp. Quan niệm về thơ thay đổi theo từng trường phái và thời đại. Ngay trong một trường phái và một thời đại thì chúng cũng có sự khác biệt lớn giữa người này và người kia. Không một ai dám đưa ra một danh sách những tiêu chí rõ ràng về thơ như một khuôn mẫu để chỉ cần đưa vào cái 'khuôn' ấy một bài thơ vào là có thể khẳng định nó... lọt khuôn hay trật khuôn."

Và tôi cũng nhân tiện đọc trao đổi của các anh chị Nguyễn Vũ Đam San, Cao Thanh Phương Nghi, Black Raccoon, Huy Tuấn, Nguyễn Tôn Hiệt, Nguyễn Đăng Thường, Trương Đức, Bùi Thị Lài liên quan đến đề tài này. Mặc dù cuộc đối thoại đã xảy ra khá lâu (gần 6 năm) nhưng câu hỏi “Thế Nào Thì Gọi Là Thơ?” vẫn chưa mất tính thời sự nên hôm nay – dù trễ - cũng xin mạo muội góp chút ý kiến.


Đã từng đọc khá nhiều thơ và cũng võ vẽ làm được mấy bài, tôi có lần tự hỏi:

Đâu là sự khác biệt giữa văn và thơ?

Tôi thấy nhiều người làm thơ, đọc thơ, mê thơ đã thử làm công việc định nghĩa thơ, nhưng hình như chưa ai đưa ra được định nghĩa nào có thể nhận diện dung mạo của thơ một cách thật chính xác, thật đầy đủ. Tuy nhiên, có một nhà phê bình văn học, theo tôi, đã bắt được cái ‘thần sắc” của thơ, đã nắm được cái cốt lõi của thơ với định nghĩa như sau:

Thơ là cảm xúc (bằng kỹ thuật thơ) đi tìm một đồng cảm. 

(Cụm từ “bằng kỹ thuật thơ” tôi xin phép tác giả được thêm vào để khỏi lầm lẫn với các bộ môn nghệ thuật khác).
Người đó là Nguyễn Hưng Quốc.
Vâng! Yếu tố để phân biệt văn với thơ chính là cảm xúc.

Mục đích chính của văn là chuyển tải thông tin. Kiến thức của người viết càng rộng, lượng thông tin càng lớn, lập luận càng khúc chiết, càng có tính thuyết phục thì bài văn càng có giá trị. Đâu đó cũng có những đoạn văn tình cảm, ướt át, nhưng cái chất ướt át đó chỉ đến tình cờ, chỉ là sản phẩm phụ. 

Với thơ, cảm xúc là chính, là máu thịt. Thông điệp cũng có đấy, nhưng chỉ như con kênh, con mương để dòng cảm xúc lưu chuyển. Thành công của bài thơ được đánh giá ở khối lượng, cường độ của dòng cảm xúc chảy trên con kênh ấy. Trong văn có chút cảm xúc thì cũng tốt; nhưng nếu không có cũng không sao. Ngược lại, trong thơ mà không có cảm xúc thì dù có vần điệu đầy đủ cũng vẫn không thể được gọi là thơ.

(Cảm xúc ở đây phải là cảm xúc của "cái tôi riêng tư của tác giả có mặt trong cảnh thơ")

Có hai đặc tính để nhận ra một “bài thơ” không phải là Thơ:

1/ Nó hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, đến từ bề mặt của ý thức; tâm của tác giả chưa có cơ hội đối diện với, hoặc bước vào, khung cảnh của bài thơ.

hoặc là:

2/ Tác giả đã bước vào khung cảnh của “Bài Thơ” nhưng chưa có những câu Sinh Tình.

Sau đây là một số thí dụ trong các bài viết cũ của tôi, nay tuyển chọn, sắp xếp lại để phù hợp với bài viết này.

Là Sản Phẩm Của Lý Trí

1/
HÌNH VUÔNG

Muốn tìm chu vi hình vuông
Lấy cạnh nhân bốn lệ thường nhớ ghi
Diện tích hình vuông khó gì
Lấy cạnh nhân cạnh sai đi đường nào

Môt ông thầy dạy toán nào đấy đã mượn thể thơ lục bát để diễn tả một công thức toán cho học trò dễ nhớ. Nội dung của 4 câu lục bát hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, không có một chút cảm xúc nào. Đây không phải là thơ.

2/
ANH YÊU KHOẢNH ĐẤT HÌNH VUÔNG

Ôi! Khoảnh đất hình vuông
ở giữa là căn nhà nhỏ bé
vách đất, mái rạ
nơi anh đã gởi cả trái tim
vì trong căn nhà đó có em.
(PĐN chế để minh họa.)

Ở đây tác giả đã bước vào, đã xuất hiện trong khung cảnh thơ, tâm đã đối cảnh. Và đã có cảm xúc. Hay dở chưa bàn đến, nhưng Anh Yêu Khoảnh Đất Hình Vuông đã có thể gọi là thơ.

3/

CÔNG CHA NGHĨA MẸ

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
(Ca dao)

Một nhà nho đã đem quan niệm về chữ hiếu của Khổng Tử dàn trải trong 4 câu lục bát để loan truyền trong dân gian. Đây chỉ là sản phẩm của lý trí, tâm chưa đối cảnh, không có cảm xúc, không thể gọi là thơ.

4/
Thôi xa rồi mẹ tôi
lệ nhòa mi mắt
mong con phương trời
có lần chợt tỉnh đêm vơi
nghe giòn tiếng súng nhớ lời phân ly
mẹ ơi con mẹ tìm đi
bao giờ hết giặc con về mẹ vui.
(Nhà Tôi, Yên Thao)

Tác giả đã bước vào khung cảnh thơ, cảm xúc đã dạt dào. Đích thị là thơ.

5/
THÁNG GIÊNG ĂN TẾT Ở NHÀ

Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
(Văn Hóa Việt, e-cadao.com)

Một nhà nghiên cứu Văn Hóa Việt đã nhờ vào khả năng quan sát sắc bén của mình nhận biết và kể lại những nét đặc thù trong sinh hoạt văn hoá của người Việt Nam từng tháng một trong năm. Tuy thể thơ lục bát được mượn làm phương tiện để chuyển tải thông điệp nhưng tác giả chỉ “đứng ngoài” chứ không cho tâm trạng, cảm xúc của mình trộn lẫn vào thông điệp. Ở đây chúng ta cũng chỉ có một loại văn vần chứ không có thơ


6/
Quan đòi thầy kiện
Bình bát nấu canh
Ăn hơi tanh tanh
Là rau dấp cá
Có mẹ không cha
Rau má mọc bờ
Thò tay sợ dơ
Đó là rau nhớt
Rau cay như ớt
Vốn thiệt rau răm
Sống suốt ngàn năm
Là rau vạn thọ
(Vè Nam Bộ)

Rõ ràng đây là một đoạn của bài vè. Mỗi câu 4 chữ, gieo vần liên tiếp. Tác giả (khuyết danh) dùng lối chơi chữ gọi tên các loại rau một cách trào phúng. Tuyệt nhiên không có cảm xúc.


Như ta đã biết, lời dạy của Đức Phật được ghi chép thành Kinh. Đệ tử của ngài, các tăng ni - dựa vào sự hiểu biết của mình – giải thích cho Phật Tử dễ hiểu bằng những đoạn văn vần ngắn. Đó là Kệ. Kinh hay Kệ, dù ý nghĩa thâm sâu cũng không phải là thơ.

7/
KINH PHÁP CÚ

Không làm các việc ác
Tu tập các hạnh lành
Giữ tâm ý thanh tịnh
Là lời chư Phật dạy

8/
THỊ ĐỆ TỬ

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(Sư Vạn Hạnh, thivien.net)

DẶN HỌC TRÒ

Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông
(Ngô Tất Tố dịch)

Thiền sư Vạn Hạnh đã dùng hình thức thơ thất ngôn tứ tuyệt để lý giải lẽ Vô Thường. Tất cả những câu chữ ông viết ra đều đến từ bề mặt ý thức, là sản phẩm của lý trí. Ông truyền đạt cho mọi người một phần sự hiểu biết của ông về đạo Phật; đó là lẽ Vô Thường của vạn vật. Do không có tâm đối diện với cảnh sắc, lý chưa biến thành sự, bài Thị Đệ Tử chỉ là Kệ chứ chưa phải là Thơ.

9/
HÃY TIN CHÚA

Hãy tin nơi Thiên Chúa
Hồn xác dâng cho ngài
Hãy sống theo lời Chúa
Chết, sẽ về nước Trời

Đây chỉ là lời kêu gọi mọi người Hãy Tin Chúa. Không có bóng dáng cảm xúc nên không thể gọi là thơ.


Có Cảnh Nhưng Chưa Có Tình

1/
“THƠ CON CÓC”

Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi

Ba chàng Ngốc tâm đã đối cảnh nhưng chưa có câu thơ sinh tình nên “THƠ CON CÓC” chưa phải là thơ. Độc giả có thể đọc “Thơ Con Cóc” Có Phải Là Thơ? ở bài kế tiếp.

2/
Đồi trọc
Thoảng trong gió
Tiếng cóc

Cũng như “Thơ Con Cóc”, đây mới chỉ là những câu xác lập khung cảnh, mặc dù tâm đã đối cảnh nhưng chưa Sinh Tình, thứ Tình trong “thất tình lục dục” của con người (hỷ nộ ái ố ai lạc cụ và sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục, pháp dục), nên chưa phải là Thơ (loại Thơ Thế Tục ta thường gặp).

Tuy nhiên, đây là bài thơ Haiku, trường hợp này do tâm đã đối cảnh, Cái Tôi Chủ Thể đã bước vào khung cảnh bài thơ, đã có cảm xúc - niềm vui thấy mình đã buông xả, không còn bị vướng mắc, lôi kéo, nhìn cảnh vật như thị, như thực, không có tư ý, tư dục xen vào. Đây chính là loại Thơ Thiền.

Một Số “Bài Thơ” Bị Tước Mất Danh Hiệu Thơ.

Ngày tôi còn mài đũng quần ở trung học, thơ được hiểu là một loại hình nghệ thuật dùng chữ, có vần điệu để biểu lộ một cảm xúc hoặc diễn đạt một ý tưởng cao đẹp (noble thought). Khi tôi vào đại học, Kim Lũ Y là bài thơ Đường được giảng dạy ở Văn Khoa. Nhưng khoảng mấy thập niên sau này cái phần đuôi của định nghĩa thơ: hoặc diễn đạt một ý tưởng cao đẹp (noble thought), trong rất nhiều sách và trang web thơ ca, đã lặng lẽ biến mất.

1/

KIM LŨ Y

Khuyến quân mạc tích Kim Lũ Y
Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì
Hoa khai kham chiết trực tu chiết
Mạc đãi vô hoa không chiết chi.
Đỗ Thu Nương

ÁO KIM TUYẾN

Khuyên anh đừng tiếc áo thêu vàng
Khuyên anh nên tiếc thời trẻ trung
Hoa nở bẻ được thì nên bẻ
Đừng chờ hoa hết, bẻ cành không.

2/

LA CỐNG KHÚC
Kỳ Tam

Mạc tác thương nhân phụ
Kim thoa đương bốc tiền
Triêu triêu giang khẩu vọng
Thác nhận kỷ nhân thuyền.
Lưu Thái Xuân

BÀI CA LA CỐNG
(bài 3)

Chớ làm vợ những người lái buôn
Trâm vàng để trả thày bói (hỏi ngày chồng về).
Sáng nào cũng ra cửa sông trông ngóng,
Mà chỉ thấy nhầm toàn thuyền của người ta.

Hai tác giả sành đời đã đem kiến thức và kinh nghiệm của mình - bằng hình thức thơ - khuyên bảo lớp hậu sinh. Nội dung hai “bài thơ” trên toàn là những điều hay, lẽ phải nhưng tuyệt nhiên không có cảm xúc. Trước đây, vì quan niệm “văn dĩ tải đạo” ông cha ta đã long trọng gọi chúng là Thơ. Nay Thơ đã đi theo một hướng mới, đã có những định nghĩa mới gắn chặt nó với tâm tình, cảm xúc của con người nên, dựa vào cách nhìn nhận mới đó, chúng không còn xứng đáng với danh hiệu Thơ nữa.

Khác Biệt Giữa Kệ, Thơ Thiền Và Thơ Thế Tục

1/ Kệ: là một cách giải thích Kinh bằng văn vần, không cảm xúc.
2/ Thơ thiền : có cảm xúc nhưng cảm xúc đó chỉ là “niềm vui”, sự sảng khoái khi thấy mình đã thoát vòng tục lụy, tâm không vướng mắc điều gì, không có tư ý, tư dục, nhìn sự vật như thị, như thực. Nói có vẻ “đạo” một tý là lúc ấy, trong khung cảnh của bài thơ ấy, cái tiểu ngã của tác giả đã hòa nhập với cái đại ngã của vũ trụ.
3/Thơ thế tục: cảm xúc là thứ Tình phát xuất từ Thất Tình, Lục Dục của người đời.
Sau đây là một số bài Kệ, Thơ Thiền và Thơ Thế Tục đặt cạnh nhau để bạn đọc dễ phân biệt.

Trăng Non, Sơ Tam Sơ Tứ Và Chơi Trăng Lên

TRĂNG NON

Vũ trụ bao la rất nhiệm mầu
Chân không diệu hữu thật thâm sâu
Trùng trùng duyên khởi không gì mất
Trăng khuyết lại tròn – đời biển dâu
(Minh Lương Trương Minh Sung)

Bài Trăng Non viết về trùng trùng duyên khởi của vạn vật, mất rồi lại có, như trăng khuyết lại tròn, biển biến thành nương dâu. Cả 4 câu, 28 chữ đều phát xuất từ bề mặt ý thức. Chính vì chỉ có “lý” mà thiếu “sự”, nên không thể gọi là thơ. Tuy nhiên, tác giả đã thành công trong việc biểu lộ kiến thức của mình về đạo pháp, đem cái hạt giống đạo pháp đó truyền đạt cho mọi người. Đây có thể gọi là một bài kệ, một chiếc cầu để đưa người đời đến với những lời dạy cao siêu, thâm thúy của đức Phật (kinh).

SƠ TAM SƠ TỨ

Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không


MỒNG BA MỒNG BỐN

Mồng ba mồng bốn trăng mờ
Nửa dường móc bạc nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không
(Trần Trọng San dịch)

Ở đây sư ông và chú tiểu chùa Hàn San đã thực sự đứng trước và thưởng thức vẻ đẹp của cảnh trăng non. Tâm đã đối cảnh. Cảm xúc dâng đầy. Sư ông lặng ngắm vẻ đẹp của trăng trên bầu trời. Chú tiểu đứng ở vị trí khác, có góc nhìn khác, thấy được phần chìm đáy nước của mặt trăng. Cả 4 câu gộp lại thành một bài thơ thật đẹp, không có tư ý, tư dục.
Cùng một cảnh (trăng non) nhưng bài Trăng Non chỉ là kệ, còn Sơ Tam Sơ Tứ là thơ. Khác nhau ở chỗ tâm đối cảnh và có cảm xúc (nhưng không có tư ý, tư dục).

CHƠI LÊN TRĂNG
……………………….
Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát
Để nhờ không khí đẩy lên trăng
Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi
Để hớp tinh anh của nguyệt cầu
Và để thoát ly ngoài thế giới
Để cười, để trững, để yêu nhau.
…………………….
(Hàn Mặc Tử)
Còn Chơi Lên Trăng của Hàn Mặc Tử thì tràn cảm xúc và tư ý, tư dục nên là Thơ Thế Tục.

Phong Lai Sơ Trúc, Thơ Trên Cát Và Phơi Nắng Trên Bãi Biển

PHONG LAI SƠ TRÚC

Phong lai sơ trúc
phong khứ nhi trúc bất lưu thanh
nhạn quá hàn đàm
nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh
thị cố quân tử
sự lai (#) nhi tâm thỉ hiện
sự khứ nhi tâm tùy không
(#) Có bản dùng chữ đáo

GIÓ ĐẾN BỤI TRÚC

Gió đến bụi trúc
Gió qua rồi mà trúc không lưu lại âm thanh
Nhạn bay qua đầm nước lạnh
Nhạn qua rồi mà mặt nước đầm không lưu lại hình ảnh
Cho nên người quân tử
Việc đến thì tâm khởi
Việc qua thì tâm hoàn không
(Tự dịch)

Một Nho gia đã viết Phong Lai Sơ Trúc để chỉ cho đám hậu bối phương cách “chính kỳ tâm”, một trong chuỗi mắt xích “thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” mà nho sinh phải từng bước tu tập để thành người quân tử. 

Bốn câu đầu tượng thanh, tượng hình, đẹp như một bài thơ nên nhiều người lầm tưởng đó là thơ. Thật ra 4 câu đó đã được tác giả “nghĩ ra từ trước”, nay moi trong “kho kiến thức” ra sử dụng để viết bài “huấn thị” cho đám học trò. Rất tình cờ, ở đây Nho học đã gặp Phật học. Nhiều Phật tử trên đường học đạo đã cho đó là một bài thơ và thường chiêm nghiệm để tu tâm. 

Đúng ra Phong Lai Sơ Trúc có thể gọi là kệ (hay một cái tên gì khác) chứ nó không phải là một bài thơ. Tác giả không đối cảnh rồi cảm ứng sáng tác ra nó; đây chỉ là công việc riêng lẻ của lý trí; những thành phần khác của tâm như bản năng (ái dục), tình cảm đều không có cơ hội, không được quyền tham dự vào.

Bây giờ chúng ta cùng đọc Thơ Trên Cát của thiền sư Viên Minh

THƠ TRÊN CÁT

Viết bài thơ trên cát
Cơn sóng vỗ xóa đi
Vô tình đâu biết được
Mình viết bài thơ gì.
(Viên Minh, từ tác giả)

Cũng cái ý đấy, nhưng ở đây thiền sư của chúng ta đã thực sự đối diện với cảnh đời, cảnh bao la sóng nước của biển cả, để có hứng, có cảm xúc viết thành bài thơ. Những thành viên của Tâm từ Tam Tạng (bản tâm), Tề Thiên (lý trí), đến Trư Bát Giới (bản năng, ai duc), Sa Tăng (tình cảm) đều có mặt. Nhưng do được “tu luyện đến nơi đến chốn” nên tất cả đều lặng thinh. 

Thơ Trên Cát được viết ra để nói về bài thơ đã mất; mất thật sự, không lưu lại một dấu tích gì trong lòng tác giả; bài thơ mất mà tác giả của nó không một chút bận tâm, luyến tiếc. So sánh với “phong lai sơ trúc” và “nhạn quá hàn đàm” thì hình ảnh cơn sóng vỗ xóa mất bài thơ cũng đẹp và nên thơ không kém. Đối cảnh tâm có cảm xúc nhưng không có tư ý, tư dục chính là trường hợp này. Có thể nói đây là bài thơ thiền của một người đạt đạo.

Cùng một ý nhưng Thơ Trên Cát của Viên Minh là thơ, còn Phong Lai Sơ Trúc chỉ là một lời khuyên, một thứ “huấn thị”. Khác biệt cũng chỉ ở chỗ tâm đối cảnh và có cảm xúc.

PHƠI NẮNG TRÊN BÃI BIỂN

Biển vắng nàng nằm phơi nắng
Chỗ không nên phơi, cũng phơi
Tôi vô tình đi qua đấy
Nhìn thấy nóng ran cả người
(PĐN)
Lòng ham muốn (dục vọng) đã nổi lên. Chúng ta đã có Thơ. (Thơ Thế Tục)

Tại Sao Có Mưa? – Biệt Nhất Phương – Muốn Làm Mây Trắng

TẠI SAO CÓ MƯA?

Nước từ biển bốc hơi
Thành mây trắng trên trời
Nếu gặp luồng khí lạnh
Thì sẽ có mưa rơi

Đây có lẽ là một đoạn văn vần do thầy (cô) giáo (môn Khoa Học Tự Nhiên) nào đó đặt ra để học trò dễ nhớ. Chỉ là sản phẩm của lý trí, không phải thơ.

BIỆT NHẤT PHƯƠNG

Đáo tận yên hà xứ
Hồi đầu biệt nhất phương
Mục tiền sơn thủy hạo
Nguyệt hiện thảo đầu sương
(Viên Minh)

RIÊNG MỘT CÕI

Đến tận vùng mây khói
Ngoảnh lại riêng một cõi
Trước mắt núi sông hùng vĩ
Trăng hiện trên hạt sương đọng trên đầu nhọn cỏ
(Tự dịch)

Tác giả sảng khoái đến độ lạc thần trí trước vẻ đẹp của mây khói, sóng nước nhưng không có một chút tư ý, tư dục. Có thể nói cái tiểu ngã của tác giả đã hòa nhập vào cái đại ngã của đất trời, của vũ trụ. Đây là bài thơ thiền.

MUỐN LÀM MÂY TRẮNG

Ta muốn làm mây trắng
Bay về Huế mộng mơ
Chờ đến khi nắng hạn
Đổ xuống một trận mưa
(Không biết xuất xứ)

Đây là tâm tình của một người Huế rất nặng tình với Huế. Cảm xúc đã dạt dào trên trang giấy. Muốn Làm Mây Trắng đích thị là một bài thơ (Thơ Thế Tục)

Viết Thêm Về Thơ Haiku

Sau đây là bài Haiku nổi danh của văn học Nhật:

Xưa cũ một bờ ao
Con ếch tung mình xuống
Và vang tiếng nước xao
(Bashô)

Hai chữ cần đặc biệt chú ý trong bài thơ là "xưa cũ". Nhìn con ếch tung mình xuống bờ ao xưa cũ tạo nên tiếng nước xao tác giả thấy hiện lên trong hồn những kỷ niệm về một thời nào đó trong quá khứ. Có cảm xúc của thất tình lục dục nên bài thơ đã có thể mang danh hiệu Thơ (Thơ Thế Tục). 

Đây là bài thơ rất kiệm lời, thủ pháp Show, Don't Tell đã đến mức thượng thừa. Hai từ "xưa cũ" là tác nhân để dẫn đến những hoài niệm về một thuở xa xưa khiến bài Haiku này có danh hiệu Thơ Thế Tục. Nếu không có tác nhân "xưa cũ" làm sống lại những hoài niệm thì bài Haiku vẫn xứng đáng là thơ - nhưng là thơ thiền.

Những Câu Thơ Chùm Gởi

Chúng ta thử đọc bài thơ sau đây của Mai Quỳnh Nam:

TỰ SÁT, TRƯỜNG HỢP HEMINGWAY

Tự sát
cơ chế di truyền
căn nguyên từ máu
Viên đạn súng săn sư tử
chính ông phát nổ
Chết
ai cũng vậy thôi
bi kịch đời người
cần giải thoát
(Tạp Chí Thơ HNVVN số 11-2011, tr.6)

Đoạn đầu:

Tự sát
cơ chế di truyền
căn nguyên từ máu

là một phát biểu (statement), có thể là ý của tác giả, cũng có thể là khám phá của nhiều người khác mà tác giả đã tổng hợp được qua quá trình đọc của mình. Nó là sản phẩm của lý trí nên, nếu đứng một mình, không thể gọi nó là thơ. Nhưng đặt nó lên đầu bài coi như một gợi ý, có đóng góp cho bài thơ nên nó được “ăn theo”, trở thành những câu thơ trong bài thơ đó. Bởi vậy tôi gọi nó là những câu thơ ăn theo, hay là những câu thơ chùm gởi.
Tương tự như vậy, đoạn đầu trong bài thơ sau đây:

LÁ CỜ CHÍNH NGHĨA

Tự do như muối
hạnh phúc như đường
khi đang còn
ăn đủ miếng ngọt, miếng ngon
khó thấy được
giá trị của hạt đường hạt muối
……………………………..
(Lá Cờ Chính Nghĩa, Phạm Đức Nhì, t- van.net)
cũng chỉ là một phát biểu của tác giả về hai ý niệm Tự Do và Hạnh Phúc; đó là sản phẩm của lý trí. Đứng một mình thì không phải là thơ. Nhưng đặt vào khung cảnh bài thơ thì nó lại là những câu mở đầu cần thiết, đưa ra chủ đề để tác giả khai triển ở những đoạn sau. Nó đã “ăn theo” để trở thành những câu thơ chùm gởi.

Trở Lại Bài Thơ Của Nguyễn Khoa Điềm

BỨC CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH GIÀ

Những giọt nước mắt
Thật buồn
Thật lặng lẽ
Trước bức chân dung
Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi
Của một người tù.

Trận chiến Lịch Sử
Đã phá tung mọi xiềng xích?
Người họa sĩ trẻ
Từ sau song sắt
Vẫn bình tâm
Dành lòng biết ơn
Không dứt
Cho một người lính già.
19.9.2011
Nguyễn Khoa Điềm

Tôi không biết thi sĩ Đỗ Trung Quân dựa vào đâu để phán Bức Chân Dung Của Người Lính Già không phải là thơ.

Theo tôi thì, ngắm bức chân dung của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp tác giả tâm đã đối cảnh và biểu lộ cảm xúc của mình trước tấm tình của họa sĩ (Cù Huy Hà Vũ) đối với Đại Tướng:

Những giọt nước mắt
Thật buồn
Thật lặng lẽ
Trước bức chân dung
Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi

Với những chi tiết ấy Bức Chân Dung Của Người Lính Già đã xứng đáng được gọi là thơ. Bài thơ ấy hay hoặc dở lại là chuyện khác, cần đến sự phân tích và bình phẩm kỹ lưỡng hơn.

Kết Luận

Thi sĩ, nhà phê bình hay người đọc đều cần biết thế nào là một bài thơ hay. Thi sĩ, để làm thơ hay hơn, nhà phê bình, để bình phẩm cho đúng và người đọc, để thành người thưởng thức thơ sành điệu. Nhưng nói chuyện thơ hay mà quên câu hỏi “Thế Nào Thì Gọi Là Thơ?” thì cũng như bàn chuyện “ngọn” mà không để ý đến “gốc”.

Tôi tình cờ bước vào cuộc đối thoại về cái “gốc” của thơ trên Tiền Vệ và nhận thấy rất hữu ích. Bài viết này là một chút ý kiến đóng góp để may ra có thể làm sáng hơn cái “gốc” của thơ. Sẵn sàng đón nhận mọi ý kiến của các anh chị tham gia đối thoại và tất cả bạn đọc.

Phạm Đức Nhì



Bài 2



THƠ CON CÓC CÓ PHẢI LÀ THƠ?

Từ bài Thơ Con Cóc đã nổ ra một cuộc tranh luận về cái "gốc" của thơ gồm toàn những tay cự phách về lý thuyết thơ. 

Trong bài Nhân Cuộc Tranh Luận Về Thơ Con Cóc,
Thụy Khê đã viết:

Khi Nguyễn Hưng Quốc thách Đỗ Minh Tuấn
phải chứng minh được rằng Thơ Con Cóc không
phải là thơ, Đỗ Minh Tuấn đã vội lo "đây là một
thách thức triết học nghiêm túc, nhưng lại là một
vấn đề ngụy tạo". Những lo lắng của Đỗ Minh
Tuấn thật sự không cần thiết vì ở đây cũng chẳng
có vấn đề triết lý triết học gì cả. Chỉ có một lẽ dễ
hiểu là xưa nay chưa ai định nghĩa được một cách
chính xác Thơ là gì? …

Và bà đưa ra kết luận nước đôi:

 Vậy Thơ con cóc, bảo nó là thơ cũng được. Mà bảo
 không phải là thơ cũng xong. (1)

Tôi tự mình chưa nghĩ ra được một định nghĩa cho
thơ, nhưng nếu hỏi

“Thơ Con Cóc có phải là thơ hay không?

thì tôi hy vọng có thể trả lời được. Ít nhất là sẽ cố
thử xem.

 

Những Câu Thơ Dọn Cảnh

Từ trước cả cái thời có giai thoại “Thơ Con Cóc”
các cụ của chúng ta làm thơ thường theo trình tự
Tức Cảnh – Sinh Tình. Cảnh là cái cớ; cốt tủy của
Thơ nằm ờ chữ Tình. Vì thế, bài thơ thường mở
đầu bằng những câu dọn cảnh, qua đó tác giả phác
họa khung cảnh của bài thơ. Tôi gọi tắt là những
câu Cảnh.

Cảnh có thể là một người, vật, cảnh vật, sự việc hay
ý tưởng xuất hiện trước mắt hay trong đầu của tác
giả; tác giả tạo ra những câu Cảnh, xem đó là cái
nguyên cớ, cái gợi ý để Tức Cảnh Sinh Tình, nghĩa
là dựa vào Cảnh viết thêm những câu thơ khác biểu
lộ tâm sự, cảm xúc của mình.

Thí dụ hai câu đầu trong bài Chân Quê của Nguyễn Bính:

Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng

Ở đây tác giả đã tạo ra và bước vào khung cảnh của
bài thơ, đã đứng ở con đê đầu làng để chờ người
yêu về (tâm đối cảnh). Chúng đã có điều kiện cần
(nhưng chưa đủ) để gọi là thơ. Bởi chúng mới chỉ
là những câu Cảnh; phải chờ tác giả Sinh Tình –
nghĩa là dựa vào Cảnh để viết tiếp những câu chứa
đựng cái Tình, cái tâm sự của mình.

Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi.

Đến đây, Tình đã phát sinh, cảm xúc của tác giả đã
xuất hiện. Hai câu cảnh, đứng riêng lẻ thì chưa thể
gọi là thơ. Chỉ đến khi tác giả đã hoàn tất hai câu
Sinh Tình thì hai câu cảnh mới tự động trở thành
thơ và tất cả đã hợp cùng với những đoạn sau để
trở thành một bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Bính.

 Hai câu đầu của bài Bạc Tần Hoài (Đỗ Phủ)

Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia

Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát
Thuyền đậu Tần Hoài, cạnh tửu gia

Tác giả đã có mặt tại bến Tần Hoài để ngắm
cảnh khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát; ở 
đây tâm đã đối cảnh. Nhưng 2 câu này vẫn chưa thể
gọi là thơ vì chưa có bóng dáng của cảm xúc. Phải
chờ 2 câu sau:

Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa

Cô gái không hay buồn mất nước
Bên sông còn hát Hậu Đình Hoa 

(Trần Trọng San dịch)

thì mới thấy bóng dáng của chữ Tình; Đó là nỗi
buồn xé ruột của một sĩ phu yêu nước. Hai câu đầu
- đóng vai những câu thơ dọn cảnh - cũng được ăn
ké theo thành 2 câu thơ cuả một thi phẩm tuyệt tác.

 

Trường Hợp Bài “Thơ Con Cóc”

Chàng Ngốc thứ nhất xuất khẩu:

Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra

Đây là 2 câu mào đầu, dọn cảnh. Trường hợp này
tâm đã đối cảnh; chính mắt chàng Ngốc đã thấy
con cóc nhảy ra; tác giả đã có mặt trong khung
cảnh của “bài thơ”. Hai câu này đã có điều kiện
cần (nhưng chưa đủ) để được gọi là thơ. Nếu lúc
này tác giả đọc thêm vài câu nữa (Sinh Tình) thì sẽ
thành bài thơ. Nhưng cái cảm xúc đang óc ách
trong lòng chưa kịp biểu lộ thì đã … hết lượt (hết
thời gian dành cho mình, đến lượt người khác).

Nếu Chàng Ngốc Thứ Hai dùng 2 câu của Chàng
Ngốc Thứ Nhất làm phần mào đầu, gợi ý rồi đọc
mấy câu Sinh Tình của mình thì đã không bị gọi là
Chàng Ngốc và đã không có giai thoại ‘Thơ Con
Cóc”. Đàng này thấy con cóc vẫn cứ ngồi đó (chắc
hơi lâu) nên chàng đã đọc 2 câu mào đầu của chính
mình:

Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó

Thế là hết giờ, đến lượt người khác. Do đó cái tâm
sự không thoát ra được, đành phải để âm ỉ trong
lòng. Đến đây chúng ta cũng vẫn chưa có Thơ.

Chàng Ngốc Thứ Ba tiếp tục mắc lỗi lầm của
Chàng Ngốc Thứ Hai nên cũng chỉ được thêm 2
câu thì hết giờ:

Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi.

Cả 6 câu của 3 Chàng Ngốc hợp lại, tuy dài hơn, có
thứ tự lớp lang như một câu chuyện, cũng chỉ là cái
phần mào đầu, dọn cảnh (Cảnh), chưa có ai Tức
Cảnh Sinh Tình nên vẫn chưa có Thơ.

Giá như một trong ba chàng Ngốc (ai cũng được)
làm thêm đoạn dưới đây:

Nhìn con cóc nhảy
tôi nhớ những ngày xưa thơ dại
tôi cùng cô bé bên nhà
sau cơn mưa
cầm giỏ đi bắt cóc nhái
chơi mở quán bán hàng

(PĐN chế ra để minh họa)

thì đã có chút cảm xúc, thương nhớ, vấn vương một
kỷ niệm thời nhỏ dại. Và chúng ta đã có Thơ (hay
dở lại là chuyện khác).

Như vậy, “Thơ Con Cóc”, tuy đã vượt lên trên các
loại ca dao, vè, kệ, văn vần … , là “những câu thơ
dọn cảnh” đã qua được cửa ải “tâm đối cảnh”,
nhưng vì không có những câu Sinh Tình để bám
vào ăn theo nên cũng chỉ mới có điều kiện cần,
chưa đủ để được gọi là Thơ.

Nếu cách giải thích này may mắn được độc giả
chấp nhận thì “Thơ Con Cóc” không phải là
thơ. Những ai cho “Thơ Con Cóc” là một bài thơ
hay, hoặc dở (2) không những chỉ … trật lất mà
còn … trật lất đến hai lần.

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

Chú thích:
1/ http://thuykhue.free.fr/tk97/concoc.html


Bài 3


                            
VỀ "BÀI THƠ" ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN

                                   
Từ Một Bình Luận Trên Facebook

Dưới bài “Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết” Của Nguyễn Đức Tùng Có Phải Là Thơ? (1) do tôi (Phạm Đức Nhì) viết và đăng trên Facebook đã khá lâu, chị Kim Phượng Ngọc Huỳnh mới đây đã có bình luận như sau:

Anh PĐN ơi!
Bài thơ Đồng Dao Cho Người Lớn của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, theo em thấy nó "khô" quá. Vậy có phải là thơ không anh?

Đọc bình luận của chị xong tôi vào Google tìm đọc Đồng Dao Cho Người Lớn thì thấy bài thơ đã đuợc khá nhiều người bình. Nó cũng được nhạc sĩ Đỗ Triệu An phổ nhạc và còn được lấy tựa đặt tên cho cả một tập thơ của thi sĩ. (2) 

Với bài thơ được đọc và yêu mến rộng rãi như thế mà chị KPNH lại chê là “khô” và lại còn đặt câu hỏi “Vậy có phải là thơ không anh?” thì đúng là chị đã hơi bị “to gan” mà lại còn “làm khó” tôi nữa. Tuy nhiên, vì câu hỏi liên quan đến bài viết của mình nên tôi bỏ thời gian đọc kỹ bài thơ và “gồng mình” viết thêm một bài ngắn trả lời chị.

Dưới đây là cả bài thơ:

ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN
               
Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
có con người sống mà như qua đời
có câu trả lời biến thành câu hỏi
có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
có cha có mẹ có trẻ mồ côi
có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
có cả đất trời mà không nhà ở
có vui nho nhỏ có buồn mênh mông
mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi.

Nguyễn Trọng Tạo - 1992


Trước hết, xin cảm ơn chị Kim Phượng Ngọc Huỳnh. Chị có con mắt thơ rất tinh. Đúng như chị nói, “bài thơ” ấy “khô”, chẳng có tý cảm xúc nào. Còn nó có phải là thơ hay không thì bây giờ tôi sẽ giải thích.

Đồng Dao Và Vè

Đồng dao là lời hát dân gian truyền miệng của trẻ em, thường kèm một trò chơi nhất định. (3)

Sau đây là một ví dụ:

DUNG DĂNG DUNG DẺ

Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến ngõ nhà Trời
Lạy Cậu lạy Mợ
Cho chó về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Ngồi xệp xuống đây

Theo Wikipedia Tiếng Việt thì:

“Vè là một trong những thể loại văn học dân gian Việt Nam. Vè được sáng tác bằng văn vần, sử dụng nhiều hình thức khác nhau: câu bốn chữ, năm chữ, lục bát, hát giặm, nói lối. 

Có vè đồng dao, là những bài hát của trẻ em. Có vè thế sự, về người thật việc thật, phản ánh, bình luận những câu chuyện thời sự địa phương, những chuyện đồi phong bại tục, những chuyện áp bức bóc lột của cường hào địa chủ và đời sống khổ cực của dân nghèo trong làng xóm. 

Những người đặt vè, bẻ vè, nói vè phần nhiều thuộc tầng lớp dưới trong xã hội.”

Dựa vào thông tin trích dẫn ở trên có thể kết luận mà không sợ sai lầm, xét về mặt thể loại, đồng đao cũng là một loại vè, không phải là thơ.

Trở Lại “Đồng Dao Cho Người Lớn”

Theo Đỗ Trọng Khơi, “Đồng Dao của Nguyễn Trọng Tạo viết ở nhịp 8 chữ nhưng soi chẻ rạch ròi vẫn thấy cái dư khí của hồn bốn chữ dân gian”. Tôi đồng ý với anh ở điểm này. Cho nên ĐDCNL – đúng như cái tựa của nó – là một bài đồng dao. Và theo tôi, khi chọn cái tựa ấy, về mặt hình thức, tác giả đã vô tình tự xếp loại nó là vè.

Về nội dung thì “bài thơ” ấy chỉ là một tập hợp “hổ lốn” những câu nói, những phát biểu của nhà thơ, xếp đặt tùy tiện, không theo một cấu trúc hay một thế trận nào. Mỗi phát biểu là một “triết lý vụn” về một khía cạnh nào đó của cuộc đời.

Những phát biểu kiểu “triết lý vụn” ấy đã được ông góp nhặt từ quá trình học hỏi cũng như kinh nghiệm sống của mình. Lúc cơn hứng đến hoặc có gì đó khơi gợi, thôi thúc, ông cho nó tuôn ra và dùng kỹ thuật thơ của mình ghi lại. Rất tiếc, ông đã quên tạo ra một khung cảnh để mời tâm hồn của mình bước vào cho “tâm đối cảnh” và “tức cảnh sinh tình”. 

Cái gọi là “tứ thơ” chỉ là dòng ý tưởng – hoàn toàn là sản phẩm của lý trí - tuy mở ra nhiều miền nghĩa nhưng lại không có tâm hồn và cảm xúc làm bạn đồng hành nên khô cứng như một cái xác không hồn.

Như vậy, Đồng Dao Cho Người Lớn – đúng như tác giả đã vô tình tự xếp loại – là một bài vè, không phải là thơ.


Những Vòng Nguyệt Quế

Đồng Dao Cho Người Lớn không phải là thơ nhưng, không biết tại saolại được dân chơi thơ chấp nhận, tán thưởng và trao tặng nhiều phần thưởng cao quý:

1/ Được nhạc sĩ Đỗ Triệu An phổ nhạc.
2/ Được lấy tên đặt cho cả một tập thơ cùng tác giả (2)
3/ Được ít nhất 3 người viết lời bình. (Đỗ Trọng Khơi, Trần Kim Lan và Trần Trung) (4)  
4/ Được chọn là một trong 100 Bài Thơ Hay Thế Kỷ 20.
5/ Bài do Trần Trung viết lời bình được đưa vào tập Bình Thơ Từ 100 Bài Thơ Hay Thế Kỷ XX - Tập Hai


Kết Luận:

Nhận diện thơ – phân biệt thơ với những thứ không phải là thơ - lẽ ra phải là bài học đầu tiên cho thi sĩ, cho nhà phê bình và cả những người thưởng thức thơ. Nhưng bài học nhập môn này thường không được giới chơi thơ coi trọng hoặc tìm hiểu đến nơi, đến chốn.

Thỉnh thoảng có một bài vè đi lạc vào vườn thơ cũng không phải là chuyện lạ. Vè được nhạc sĩ phổ nhạc cũng chẳng có gì đáng nói. Vè mà được lấy tên đặt cho cả một tập thơ, tuy có hơi ngược đời nhưng đó là quyền của tác giả. Vè mà được mấy người chơi thơ xúm vào viết lời bình, tuy hơi lạ nhưng cũng dễ hiểu – đó là quyền của người bình; hơn nữa họ thuộc trường phái bình thơ không bàn thi pháp - chỉ đem ý tứ tán rộng ra – thì thơ có khác gì văn xuôi, thơ với “không thơ” cũng “cá mè một lứa”.

Tuy nhiên, để một bài vè như Đồng Đao Cho Người Lớn, một thứ cây dị chủng, chưa đủ điều kiện để được gọi là thơ, không những lọt vào vườn thơ mà lại còn được đặt vào chỗ trang trọng nhất, được chọn vào danh sách 100 Bài Thơ Hay Thế Kỷ 20, thì quả là trái khoáy và bất công đến độ lố bịch. 

Lạ lùng thay, sự trái khoáy và bất công ấy vẫn cứ ung dung tồn tại suốt bao nhiêu năm nay. Mãi cho đến tuần lễ cuối tháng 6 /2018  mới có người lên tiếng phản bác. Một lần nữa, cám ơn chị Kim Phượng Ngọc Huỳnh, người có tấm lòng vàng với thơ, đã mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình.

 Xin những người có trách nhiệm canh giữ Vườn Thơ Việt Nam và những người yêu thơ khác cùng góp tiếng nói để lấy lại công đạo cho thơ.

Texas ngày 10 tháng 7 năm 2018
Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com

CHÚ THÍCH:

1/ Trang Facebook nhipham

2/ Đồng Dao Cho Người Lớn, Nhà Xuất Bản Văn Học, Hà Nội 1994.


4/ Đỗ Trọng Khơi trong Bàn Về Đồng Dao Cho Người Lớn Của Nguyễn Trọng Tạo

Trần Kim Lan trong Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Đồng Dao Cho Người Lớn Của Nguyễn Trọng Tạo 

Trần Trung trong “Đồng Dao Cho Người Lớn”
Bình Thơ Từ 100 Bài Thơ Hay Thế Kỷ 20 (Tập Hai), Vũ Quần Phương Chủ Biên, Nhà Xuất Bản Giáo Dục 2008.

Cả 3 người bình (Đỗ Trọng Khơi, Trần Kim Lan, Trần Trung) đều gọi ĐDCNL là thơ.


BÀI 4 


TRAO ĐỔI VỀ "BÀI THƠ" ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN


Sau khi đăng bài viết Về “Bài Thơ” Đồng Dao Cho Người Lớn của tôi trên trang web văn học Vũ Nho Ninh Bình, bác Vũ Nho (PGS/ TS) - chủ trang web - đã vìết một bình luận ngay dưới bài viết.

Nếu độc giả chưa đọc bài Về “Bài Thơ” Đồng Dao Cho Người Lớn có thể đọc theo link sau đây:



Bình Luận Của TS Vũ Nho:

Đây là ý kiến cá nhân của tác giả Phạm Đức Nhì!

Về định nghĩa thể loại thì Nguyễn Trọng Tạo gọi đây là đồng dao (Đồng là trẻ em, dao là bài hát không thành chương khúc. Đồng dao là bài hát trẻ con) Nhưng ở đây là đồng dao cho người lớn. Nguyễn Trọng Tạo chỉ "mượn" hình thức đồng dao thôi. Cũng không nên căn cứ vào tuyên bố của tác giả để quyết rằng đồng dao là một loại VÈ như Phạm Đức Nhì đã làm. 

Cũng không thể nói rằng VÈ thì kém THƠ. Vè là một thể loại văn học dân gian. Một bài VÈ Hay thì quý gấp nhiều lần một bài THƠ Dở. Đó là điều không thể phản bác. Nhưng "Đồng dao cho người lớn" có phải là VÈ không thì câu chuyện không đơn giản. Những bài đồng dao, hay vè, yếu tố cá nhân, cái tôi của tác giả hầu như khá mờ nhạt. Ngay cả khi kể vè : "Ve vẻ vè ve, lặng nghe tôi kể... thì cái "tôi" ấy cũng không có nét riêng. Thường thì dân gian bắt đầu : "Ve vẻ vè ve, cái về thằng Nhác...".

Bài “đồng dao cho người lớn” thể hiện CÁI TÔI của tác giả rất rõ. Chỉ hai câu đầu thôi, đã thấy cảm xúc mạnh mẽ của tác giả về sự SỐNG Và CHẾT. Tại sao anh Nhì lại thấy rằng những dòng này "không có tâm hồn và cảm xúc" nhỉ? Đó là chuyện riêng của anh. Riêng câu nhận xét của chị KIm Phương rằng bài đó "khô" cho nên hoài nghi không biết có phải thơ không thì...thật là phiến diện. Có thơ trữ tình, có thơ trí tuệ, có thơ văn xuôi...sao cứ phải "ướt" hay "không khô" mới là THƠ?

Chẳng ai được giao trách nhiệm canh giữ vườn thơ cả. Là thơ hay không thơ là do người đọc cảm nhận. Là THƠ hay hoặc THƠ dở cũng do cách đánh giá riêng của mỗi người. Cứ việc bàn luận. Nhưng chớ nghĩ rằng mọi người sao... lơ mơ thế, chỉ có ý kiến mình là đúng đắn thôi. Tôi muốn nhắn anh Phạm Đức Nhì mấy lời và dù khác ý kiến của anh, tôi vẫn tôn trọng đưa bài viết này!


Phạm Đức Nhì:


Tôi đã đọc bình luận của bác dưới bài viết và thấy rằng nhìn nhận và đánh giá của bác và tôi về bài ĐDCNL của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, quả thật, có khác nhau. Xin phép được làm rõ vài điểm trong bình luận của bác.

1/ Xét về mặt hình thức, ĐDCNL có phải là Vè không? 

Theo Đỗ Trọng Khơi, “Đồng Dao của Nguyễn Trọng Tạo viết ở nhịp 8 chữ nhưng soi chẻ rạch ròi vẫn thấy cái dư khí của hồn bốn chữ dân gian”. Tôi đồng ý với anh ở điểm này. Cho nên ĐDCNL – đúng như cái tựa của nó – là một bài đồng dao (biến thể). Mà đồng dao, theo đoạn trích trong Wikipedia Tiếng Việt ở trong bài viết của tôi, là một loại vè. Chính vì thế, theo tôi, khi chọn cái tựa ấy, về mặt hình thức, tác giả đã vô tình tự xếp loại nó là vè. 

Tuy nhiên, để khỏi lầm trường hợp mà theo bác, “Nguyễn Trọng Tạo chỉ ‘mượn’ hình thức đồng dao thôi” nên tôi phải nhìn vào nội dung. Nếu nó có cảm xúc từ cái tôi riêng tư của tác giả thì đúng là một bài thơ mượn hình thức đồng dao. Nếu nó tuyệt nhiên không có một tý ty cảm xúc của “cái tôi riêng tư” thì trong trường hợp này, vì đã có hình thức đồng dao, nó sẽ là bài Vè. Tôi sẽ bàn về điểm này ở phần số 4.


2/ Cũng không thể nói rằng VÈ thì kém THƠ. Vè là một thể loại văn học dân gian. Một bài VÈ Hay thì quý gấp nhiều lần một bài THƠ Dở. Đó là điều không thể phản bác. 


Tôi đã gặp một y tá già, giầu kinh nghiệm lại mát tay nên chạy rong chữa bệnh cho bà con trong thôn xóm được nhiều người thích. Có người phát biểu: “Y tá mà như ông M. thì còn hơn mấy anh bác sĩ mới ra trường”. Nói thì nói thế chứ đi vào thực tế thì y tá và bác sĩ ở hai đẳng cấp khác nhau, cao thấp cách nhau một trời một vực. 

Chẳng ai là y tá mà dám coi mình ngang hàng với bác sĩ. Làm thế người ta cười chết. Phòng tổ chức của một đơn vị y tế cũng không dám bổ nhiệm một y tá vào cương vị của bác sĩ. Làm thế là sai luật, trái nguyên tắc.

Vè với Thơ cũng thế. Vè là Vè, Thơ là Thơ. Hai loại ở hai đẳng cấp riêng biệt, cao thấp khác nhau. Tôi có thằng bạn nói đùa về thơ một thằng bạn khác “Thơ của mày cứ như Vè ấy”. Thằng làm thơ coi đó là điều sỉ nhục, và hai đứa giận nhau rất lâu. Hồi mới bập bẹ làm thơ, thầy giáo môn Việt Văn của tôi thường nhắc “Khéo đấy! Coi chừng thơ thành vè thì tổ làm trò cười cho thiên hạ.”

Vì thế tôi cho rằng y tá có kinh nghiệm cách mấy cũng cũng không thể vỗ ngực coi mình ngang hàng với bác sĩ; và Vè rõ ràng không thể cùng đẳng cấp với Thơ.


3/ Bác Vũ Nho viết: “Những bài đồng dao, hay vè, yếu tố cá nhân, cái tôi của tác giả hầu như khá mờ nhạt”. 

Theo tôi, nếu đúng là đồng dao thì cái tôi riêng tư của tác giả không phải là “hầu như khá mờ nhạt” mà hoàn toàn vắng bóng. Bởi chỉ cần một tý tẹo teo cái tôi riêng tư thì nó đã không còn là vè nữa mà được nâng cấp thành thơ. 

4/ Bài đồng dao cho người lớn thể hiện CÁI TÔI của tác giả rất rõ. Chỉ hai câu đầu thôi, đã thấy cảm xúc mạnh mẽ của tác giả về sự SỐNG Và CHẾT. 

Trong câu thơ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: 

Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi 

chữ “tôi” nằm sờ sờ ra đó nên rất dễ hiểu lầm là “cái tôi” của tác giả đã có mặt trong câu thơ. 

Có hai điểm cần lưu ý trong “câu thơ” này: 

     a/ Cụm từ “Có cánh rừng chết” nói chung chung, không cụ thể, không nói rõ “cánh đồng chết” nào nên chỉ là một hình tượng đã lôi ra từ trong ký ức, là sản phẩm của lý trí chứ không phải cảnh thơ. Nếu có một đoạn trước đó nói về “cánh rừng chết” và ở đây dùng cụm từ “Cánh rừng chết ấy” thì chúng ta đã có cảnh thơ. Thí dụ như đoạn thơ dưới đây: 

Cánh rừng sát bên Xóm Đạo
sau những đợt mưa bom, mưa pháo
đã thành cánh rừng chết
với người đời
nhưng trong tôi
vẫn tươi mát một màu xanh.


“Cánh rừng chết” đã là cảnh thơ nên 2 câu thơ cuối:

"nhưng trong tôi
vẫn tươi mát một màu xanh"


đã là tâm tình của cái tôi riêng tư (tác giả), ít nhiều đã có cảm xúc và đã xứng đáng được gọi là thơ. (Hay dở chưa bàn đến). 

     b/ Sự xuất hiện của chữ “” đã khiến chữ “tôi” trở thành nhân vật trong “câu kể” của tác giả chứ không phải chính tác giả - người đang sáng tác thơ. Thi sĩ Nguyễn Trọng Tạo ở đây phải đóng 2 vai. Một, là nhân vật “tôi” trong “câu kể”, đã xuất hiện trong quá khứ và đã trốn trong ký ức, giờ bị lôi ra trình làng. Hai, là người bằng xương bằng thịt đang ngồi cầm bút làm thơ. 

Kết quả là câu “Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi” chỉ là hình tượng được lội ra từ ký ức, không có cái tôi riêng tư của tác giả dự phần nên không có cảm xúc và không phải là thơ. 

Bài ĐDCNL chỉ có câu đầu dễ hiểu lầm là thơ, còn lại những câu khác đều là những “câu kể” phát xuất từ bề mặt ý thức, rất dễ nhận ra. Sau khi đã chấp nhận phần giải thích lý do tại sao câu đầu không phải là thơ, độc giả có thể tự kết luận cả bài không phải là thơ. ĐDCNL có hình thức là đồng dao - một loại Vè – nên nó là một bài Vè.

5/ Riêng câu nhận xét của chị KIm Phương rằng bài đó "khô" cho nên hoài nghi không biết có phải thơ không thì...thật là phiến diện. Có thơ trữ tình, có thơ trí tuệ, có thơ văn xuôi...sao cứ phải "ướt" hay "không khô" mới là THƠ? 


Theo tôi hiểu, chị Kim Phượng nói “khô” với nghĩa không có tý cảm xúc riêng tư nào của tác giả. Thơ trữ tình thì không nói làm gì, còn thơ trí tuệ, thơ văn xuôi hay thơ … gì gì nữa cũng phải có cảm xúc riêng tư của tác giả thì mới gọi là thơ. Chứ “khô queo” thì nếu không là vè thì cũng là thứ dị chủng, khác loại với thơ. 

6/ Bàn thêm về câu thơ “sinh tình”


ĐÀN BÀ 

Có hai loại đàn bà 
loại chính chuyên chung thủy với chồng 

Loại không lấy chồng
suốt đời đến với đàn ông 
chỉ để thỏa mãn nhu cầu xác thịt 
tìm vui trong chốc lát.

Sáu câu trên chỉ là cách nhìn của tác giả về đàn bà, đến từ bề mặt ý thức, chưa phải là thơ. Nhưng chỉ cần thêm câu sau đây:

Tôi thích loại đàn bà thứ hai 

thì đã có cảm xúc, tình đã xuất hiện, cả bài đã trở thành thơ. Câu “Tôi thích loại đàn bà thứ hai” là câu thơ sinh tình. 

Bài ĐDCNL, tôi trộm nghĩ, do cấu trúc của đồng dao “không thành chương khúc” nên khó đưa vào một câu thơ sinh tình thích hợp. 

Kết Luận 

Với tôi, trang web Vũ Nho Ninh Bình của bác là một trang văn học đứng đắn. Tôi rất thích câu chào “Đây là quán tha hồ muôn khách đến!” Cám ơn bác đã cho tôi hân hạnh có một số bài được đăng ở đấy. Phần cuối của bình luận về bài viết bác đã nhắn “dù khác ý kiến với anh tôi vẫn tôn trọng đưa bài viết này”. Đó là thái độ người lớn, công tâm trong giao lưu văn học. 


Với nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo, tôi một lòng kính trọng ở tài năng và uy tín của ông. Mặc dù chưa trực tiếp trò chuyện, tôi đã “gặp” ông nhiều lần trong những Ngày Thơ Nguyên Tiêu ở Văn Miếu Quốc Tử Giám. Nhận xét về tính thơ trong bài ĐDCNL của ông tôi đâu dám giỡn chơi. Tôi đã tra cứu, vận dụng kiến thức của mình về thơ ca và viết rất cẩn trọng. 

Bình luận của bác đã cho tôi cơ hội nhìn lại bài viết của mình một cách kỹ càng hơn để trả lời những chất vấn của bác. Tôi tin ở những điều mình viết, nhưng với đề tài liên quan đến lý thuyết thơ, ai dám chắc là mình không sai sót? Ai dám chắc là mình được sự đồng thuận của mọi người? Tôi sẵn sàng đón nhận những phê bình, góp ý của bác và của những độc giả khác. 

Một lần nữa, xin chân thành cảm ơn bác.


 Phần 2: Đi Tìm "Cô Em Sự Thật" Trong Thơ

 Gồm 4 Bài 5, 6, 7, 8

5/ Thi Sĩ Có Xạo Không?

6/ Các Kiểu Xạo Của Thi Sĩ

7/ Kiểu Xạo Cuối Cùng: Xạo Vì Né Tránh 

         "Căn Phòng Bí Mật"

8/ Chủ Nghĩa Siêu Thực


Bài 5


                 THI SĨ CÓ XẠO KHÔNG?

  

Người Đời Thường Gian Dối


Tôi học Đệ Nhất ở Lý Thường Kiệt, một trường trung học công lập quận Hốc Môn, nhưng vì nghe tiếng giáo sư Trần Bích Lan nên thỉnh thoảng cũng “vù” lên trường Văn Học ở Sài Gòn học ké mấy giờ Triết. Phải công nhận thi sĩ Nguyên Sa giảng Triết nghe đã thiệt. Có lần, không nhớ trong bài nào, thầy phát biểu:

“Do tính sĩ diện nên người đời thường gian dối; mở miệng ra là vơ cái hay, cái tốt về mình; ngay cả khi tiết lộ một chút gì xấu của cái Tôi là cũng muốn chứng tỏ mình thành thật.”


Sau khi “mất” Khánh Ngọc, Phạm Đình Chương đã sáng tác nhạc phẩm Nửa Hồn Thương Đau trong đó có câu: 

“Đôi khi anh muốn tin, đôi khi anh muốn tin những người, ôi những người khóc lẻ loi một mình”.

 Ý nhạc sĩ muốn nói chỉ những người khóc lẻ loi một mình (như ông đang khóc Khánh Ngọc) mới đáng tin là có nỗi đau buồn chân thật.

“Bởi đàng sau những giọt nước mắt

giữa đám đông

rất có thể

ẩn hiện bóng hình

loài cá sấu.”

 (Kẻ Giết Chết Hồn Thơ, Phạm Đức Nhì, vandanviet.com)


Nhưng nhiểu trường hợp người ta còn dàn cảnh để “con mồi” được tận mắt xem tấn tuồng “khóc lẻ loi một mình” rồi tin và hiên ngang bước vào bẫy. (1)

Phạm Đình Chương, khi viết Nửa Hồn Thương Đau, không ngờ rằng ngay cả tiếng khóc lúc lẻ loi cũng có thể sản sinh những giọt nước mắt cá sấu. Tính gian dối của người đời sâu đậm đến như thế đấy.

 

Thi Sĩ Có Xạo Không?


Trở lại buổi học Triết với thầy Trần Bích Lan. Lúc ấy, vốn có tiếng nghịch ngợm lại bạo mồm, tôi ngồi tại chỗ “hỏi chõ” lên:

“Thế thi sĩ có xạo không thầy?”

Thầy nhìn về hướng tôi ngồi, trả lời tỉnh bơ:

“Có chứ, sao lại không! Khác nhau là cố ý hoặc vô tình.”

Không ngờ mấy chục năm sau, vướng “đậm” vào cái nghiệp thi ca, tôi lại phải trả lời câu hỏi của chính mình. Không biết lúc ấy thầy Trần Bích Lan trả lời thật hay đùa; tôi cũng không có cơ hội để hỏi thầy đến nơi, đến chốn.

 

Nhưng đọc khá nhiều thơ, thỉnh thoảng lại chất vấn tâm hồn mình – cũng là người múa bút làm thơ – tôi thấy quả đúng như thầy nói, thi sĩ nhiều người, nhiều lúc cũng “xạo tới bến”.

 

Tại Sao Thi Sĩ Xạo?


Lý do cũng dễ hiểu. Người đời trong giao tiếp hàng ngày, đôi lúc ở chỗ này chỗ khác, nói năng có điều gì thất thố, có xúc phạm ai thì cũng chỉ một số ít người biết. Sau đó lời nói sẽ bay đi như gió thoảng.

 

Còn thi sĩ, bài thơ xuất xưởng là sẽ vượt khỏi sự kiểm soát của mình, nếu sai sót điều gì hoặc đụng chạm đến ai đó, hậu quả của những dòng thơ trên giấy trắng mực đen sẽ đọng lại rất lâu.

Cho nên đặt bút viết phải cẩn trọng. Cẩn trọng sẽ mời gọi lý trí. Có lý trí xuất hiện, thi sĩ - dù muốn dù không – cũng sẽ Xạo.

 

CHÚ THÍCH

1/ Trong Cô Gái Đồ Long của Kim Dung tên Trường Linh đã giả vờ khóc trước bàn thờ Tạ Tốn để lừa Trương Vô Kỵ, hy vọng được Vô Kỵ tin tưởng dẫn ra Băng Hỏa Đảo.

  

BÀI 6                       

 

         CÁC KIỂU XẠO CỦA THI SĨ

 

1/ Xạo Vì Ham Danh Lợi, Sắc Dục

 

Đây là kiểu xạo theo đúng nghĩa đen của từ “xạo” – nói sai sự thật, xuyên tạc sự thật - nhằm mưu cầu danh lợi, thỏa mãn sắc dục. Thi sĩ nếu vướng vào kiểu xạo này không chỉ làm mất đẹp thanh danh của mình mà còn làm ô uế chữ Thơ (viết hoa) trong sạch, cao quý của nhân loại. 

Phạm tội hình sự nhiều khi có thể “qua mặt” pháp luật chứ phạm tội cố ý xạo (vì danh lợi) trong thơ thì sớm muộn gì cũng bị vạch mặt, chỉ tên.

 

2/ Xạo Vì Sợ, Vì Hèn, Vì Teo Chim

Đây cũng là kiểu xạo theo đúng nghĩa đen của từ “xạo” – nói sai sự thật, xuyên tạc sự thật. Thi sĩ để “cái tôi teo chim” lấn át “cái tôi văn hóa” và “cái tôi đích thực”. Biến chứng của nó là thái độ “nâng bi” chế độ, lãnh tụ, cấp trên - những người có quyền quyết định sự an nguy, thăng tiến hoặc tụt hậu của mình và gia đình.

Giữa “cái tôi văn hóa” và “cái tôi teo chim” thì “cái tôi teo chim” mạnh hơn, có uy thế hơn nhiều. Nghĩ đến chết chóc, tù đày, gia đình bị tước đoạt mọi phương tiện, nguồn sống, ngòi bút của thi sĩ đôi lúc phải cong lại hoặc vừa viết lại vừa phải “lách”. Cái xấu phủ đến đen mặt thì lờ đi, cái tốt thì có ít xít ra nhiều, nếu không có thì bịa ra, “bốc thơm” đến tận trời xanh. Thí dụ cụ thể về kiểu xạo này không thiếu nhưng tôi không trích dẫn. Sợ bị trách nặng tay bên này, nhẹ tay bên kia.  

Làm thơ mà xạo là không đẹp. Trước tiên, nó làm mất đẹp thanh danh của mình. Sau nữa còn làm ô uế chữ Thơ (viết hoa) trong sạch, cao quý của nhân loại. Tuy nhiên, xạo vì teo chim dù sao cũng có chỗ để châm chước, thông cảm. Sống trong hoàn cảnh bó buộc như thế đâu phải ai cũng có máu anh hùng.

 

3/ Xạo Vì Đứng Về Một Phía Của Một Vấn Đề Hai Mặt

 

Đây là kiểu xạo “xoay trở tứ thơ” để có góc nhìn thuận lợi cho phe mình, mục đích để giành chiến thắng trong một cuộc tranh luận. Chủ thể đối luận có thể trực tiếp tranh cãi nhưng cũng có thể vắng mặt để thi sĩ một mình một chợ dàn trải quan điểm của mình. Đây là kiểu xạo

 Ôi! Đẹp quá phe mình

còn phe bên kia

phải chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu.

 

Kiểu xạo này rất thường gặp, dính líu đến lập trường, quan điểm, được cả thi sĩ và độc giả chấp nhận. Dĩ nhiên, nó đỡ xấu hơn xạo vì danh lợi riêng tư.

 

4/ Xạo Vì Xê Dịch Kịch Bản Của Bài Thơ

 

Kịch Bản Thơ

Đã làm thơ, khi chữ nghĩa cùng với cảm xúc tuôn ra, chúng phải “chảy” về một hướng nào đó, bằng một “con kênh” nào đó. Con kênh có thể có trước, cũng có thể xuất hiện cùng thời điểm lúc chữ nghĩa và cảm xúc tuôn ra. (Trường hợp sau thì thơ dễ có hồn hơn).

Trong thực tế, ít ai từ lúc cầm bút viết những chữ đầu tiên của bài thơ cho đến khi buông bút là có “đứa con tinh thần” chào đời. Có khi ngày hôm sau, tuần sau, nhiều trường hợp còn lâu hơn nữa, phải quay trở lại tiếp tục công việc đang bỏ dở. Lúc ấy, đoạn sau phải viết sao cho ăn khớp với đoạn trước và phải phù hợp với bức tranh toàn cảnh của bài thơ.

Có điều chắc chắn rằng khi bài thơ hoàn tất, cả thi sĩ và người đọc sẽ nhận ra – có thể độ đậm nhạt khác nhau - hình ảnh của con kênh đó. Đó chính là bố cục mà riêng tôi có khi gọi là thế trận chữ nghĩa, hoặc kịch bản của bài thơ.


Kịch Bản Xê Dịch

 

Xin lập lại một đoạn trong bài viết khác:

Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt; nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện.

Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết. Là người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy.

Chưa có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch, điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được. (1)

 

Chúng ta thử đọc đoạn kết bài thơ Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính:

Đồn rằng đám cưới cô to

Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu

Nhà gái ăn chín nghìn cau

Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn

Lang thang tôi dạm bán thuyền

Có người giả chín quan tiền, lại thôi.

Tôi không tin là trong thực tế, con số chín (9) hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết “có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn.

Ở đây thủ pháp “bộc lộ, không kể” (Show, Don’t Tell) được phối hợp với phép điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết thật tuyệt vời.

Chắc Độc giả cũng đồng ý với tôi sự xê dịch kịch bản chút ít của Giấc Mơ Anh Lái Đò là có thể chấp nhận được.

 

Trường hợp này khác với “lối nói thậm xưng” tôi sẽ đề cập ở phần sau.



Kịch Bản Xê Dịch Quá Nhiều Thành Xạo

 

Nhưng đôi khi có những kịch bản bị xê dịch quá nhiều, đi đến chỗ không hợp tình, hợp lý. Độc giả sẽ cho rằng thi sĩ “xạo”, và bài thơ thất bại. 

 

Bài thơ Tình Yêu Không Lời của thi sĩ Phạm Trung Dũng có tứ thơ khá lạ và cảm động về mối tình của một chàng trai với cô gái câm điếc. Nhưng kịch bản của bài thơ đã được tác giả nêm nếm quá tay.


TÌNH YÊU KHÔNG LỜI


Em thuê trọ cạnh nhà tôi
Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa
Mấy mùa cây khế trổ hoa
Hái nhành tim tím sang nhà em chơi
Em hào phóng ban nụ cười
Pha trà rót nước rồi ngồi lặng im
Hồn tôi như mảnh trăng chìm
Bao lời thông thái nằm im trong đầu...


Một lần trời đổ mưa mau
Bỗng dưng em tới gục đầu vai tôi
Lặng yên... Cứ lặng yên thôi
Làn môi khoá chặt làn môi bất ngờ.
Bồng bềnh nửa thực, nửa mơ
Cùng em lạc giữa mịt mờ phiêu linh
Sông mê - bến lú - thuyền tình
Đã trao thì cháy hết mình vẫn trao.


Một lời chẳng nói là sao?
Một từ cũng chẳng... Lẽ nào, người ơi?
Gương trăng nhoà nước mắt rơi
Đưa tôi mẩu giấy, em ngồi lặng im.
Hồn tôi lại mảnh trăng chìm
Lời vô nghĩa hết! Trái tim khóc thầm.
Thương em vừa điếc lẫn câm
Tai ương từ tuổi mười lăm tới giờ.


Trần nhà cánh nhện buông tơ
Tôi ghì em giữa đôi bờ vai tôi.
(Phạm Trung Dũng)

 

Là hàng xóm sát mái, kề hè với nhau mấy tháng trời - có  khi cả năm -  (mấy mùa cây khế trổ hoa), lại sang nhà cô chơi mấy lần mà phải chờ đến khi hai người “tò tí” xong, đọc mẩu giấy cô gái nhét vào tay, mới biết cô gái bị câm điếc và bàng hoàng thương cảm, thì thật không thể nào tin nổi. 

 

Phạm Trung Dũng không những chỉ nêm nếm quá tay mà – trong quá trình làm thơ và kiểm soát lại trước khi phổ biến – anh đã tự bịt mắt mình để không thấy những điều phi lý lẽ ra phải thấy.

 

Khi nhận ra chi tiết chính trong kịch bản của bài thơ không phải chỉ “không hợp tình hợp lý” mà còn xạo một cách trắng trợn, cảm xúc có được qua việc đọc thơ chỉ là thứ cảm xúc giả tạo, độc giả cảm thấy bẽ bàng vì bị xúc phạm. Bài thơ thất bại một cách ê chề. 

CHÚ THÍCH:

1/ (Giấc Mơ Anh Lái Đò Hay Mối Tình Vô Vọng, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com)
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/06/giac-mo-anh-lai-o-hay-moi-tinh-vo-vong_1.html

 

5/ Xạo Nghệ Thuật - Lối Nói Thậm Xưng

 

Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” (1)

Thí dụ:

Trong bài thơ Muốn Gởi Cho Em của thi sĩ Phạm Hữu T (tặng Phượng Kim Ngọc Huỳnh) thì câu:

Muốn gởi cho em

chút gió biển Galveston

là một câu “xạo tới bến” vì gió từ biển Galveston (ở Mỹ) làm sao gởi về Việt Nam được? Nhưng phần sau của đoạn thơ lại là những cái “có lý trong nghệ thuật”.

Gió từ Mỹ gởi về:

để dịu bớt cái nắng Sài Gòn gay gắt.

Có lý quá đi chứ! Và hai câu kế tiếp:

nhưng sợ người ta đang đi mà chợt mát

rồi bồi hồi

nhớ nhớ thương thương.

 

vừa trữ tình lãng mạn - khi mượn ý của Nguyên Sa trong Áo Lụa Hà Đông -  lại vừa khôi hài ý nhị. Đoạn thơ mở đầu thật tuyệt vời. (2)

(Xin mở ngoặc nói thêm: Bài thơ là của Phạm Hữu T với cái tựa Muốn Gởi Cho Em; thí dụ trên được trích trong bài bình thơ Mối Tình Xuyên Lục Địa của PĐN)

Đây là kiểu xạo nghệ thuật, “xạo dễ thương”, nâng cao giá trị của bài thơ.

 

Xạo Nghệ Thuật – Ca Từ Trịnh Công Sơn

 

Nhiều người khen ca từ của Trịnh Công Sơn nhiều câu hay hơn cả thơ. Tôi chọn câu sau đây trong bài Như Cánh Vạc Bay:

 

Tóc em từng sợi nhỏ

rớt xuống đời làm sóng lênh đênh

 

Ôi! Chỉ có mấy sợi tóc nàng rớt xuống – không phải xuống hồ hay sông, biển - mà là xuống đời cũng đủ làm đời “dậy sóng”, làm biết bao phận người chao đảo, ngả nghiêng. Làm sao mà thực được. Nhưng lại rất đẹp, rất “thơ” và rất tuyệt. Nghe rất khoái, rất đã.

 

Tôi có cảm tưởng, bằng câu ca từ trên (và một số câu khác nữa), TCS không làm thơ nhưng ca từ của ông – không những đẹp hơn, hay hơn – mà hình như đã bước lên một tầng bậc mới, cao hơn hẳn thứ ngôn ngữ thường thấy ở trong thơ.


CHÚ THÍCH


1/ Diên Hồng Dương, Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ Xạo” 
https://www.facebook.com/dienhong.duong.5/posts/98668014146907

 

2/ Mối Tình Xuyên Lục Địa

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/06/moi-tinh-xuyen-luc-ia.html

 

 

Bài 7

 

KIỂU XẠO CUỐI CÙNG - XẠO VÌ NÉ TRÁNH "CĂN PHÒNG BÍ MẬT"

 


Câu Hỏi Làm Thi Sĩ Nhìn Kỹ Lại Tâm Hồn Mình 

 

Giả sử có một thi sĩ nào đó, không có tật nói dóc, không thích “nổ”, viết bài thơ, tứ thơ không kẹt chân ở một bên nào đó của một vấn đề hai mặt, câu hỏi được đặt ra là: “Lúc ấy thi sĩ có xạo không?”

 

Sau đây là một đoạn trích từ một bài viết của tôi (PĐN): (https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/02/co-ung-la-van-chuong-cang-hay-cang-xa.html)

 

Để có thể hội nhập và thích ứng với cuộc sống hàng ngày của cộng đồng, mỗi con người đương đại phải tuân thủ rất nhiều nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng nguyên tắc càng nhiều. 

Sau khi vào đời một thời gian (dài ngắn tùy hoàn cảnh riêng) trong mỗi thân xác con người có hai cái tôi cùng chung sống nhưng luôn đấu đá lẫn nhau để đòi quyền làm chủ thân xác đó: “Cái tôi đích thực” và cái tôi hội nhập với cuộc đời – tôi tạm gọi là “cái tôi văn hóa”. 

Tuổi đời càng cao “cái tôi văn hóa” càng mạnh, càng rõ nét và “cái tôi đích thực” càng yếu kém, càng mờ nhạt. Đến một lúc nào đó cái tôi văn hóa sẽ “đè bẹp” cái tôi đích thực để độc quyền chiếm hữu cái thân xác kia.

“Cái tôi văn hóa” (cái tôi để sống với xã hội) và “cái tôi đích thực” có một sự khác biệt lớn. Đó chính là những gì tiềm ẩn trong vô thức (của “cái tôi văn hóa”), kín đáo điều khiển suy nghĩ và hành động của con người.  Cho nên mặc dù thi sĩ 100% chân thật với “cái tôi văn hóa”, viết bài thơ (về tình yêu, chẳng hạn) không nằm ở bên nào của một vấn đề hai mặt, bài thơ đó cũng chưa phải là tâm tình của “cái tôi đích thực”, vì vẫn còn những điều đã ăn sâu vào tâm khảm, theo tập quán, thói quen, phải che giấu.


Câu Trả Lời Của Trần Hạ Vi

 

Về điểm này Trần Hạ Vi có câu trả lời sinh động bằng bài thơ Căn Phòng Bí Mật. Xin giới thiệu 2 đoạn hay nhất của bài thơ:

Có những điều sẽ chẳng nói ra

cho dù chúng ta

có yêu nhau đến thế nào chăng nữa
mấy ngàn ngày…
và có thể mấy vạn ngày tiếp lửa
chuyện anh

chuyện em
vẫn ẩn chứa bí mật của mỗi người

 

 

Có những góc tối ở trong hồn
của riêng ta

không bao giờ chia sẻ
chẳng phải vì niềm tin không vẹn vẽ
nhưng vì đó là căn phòng bí mật

chẳng nên mở bao giờ.

 

Khi còn giấu “những điều không thể nói ra”, “những góc tối ở trong hồn” trong Căn Phòng Bí Mật thì làm sao có sự chân thật hoàn toàn trong thơ.

Như vậy, Căn Phòng Bí Mật – Sigmund Freud gọi là vô thức - gần như là chướng ngại vật cuối cùng của con người đương đại nói chung và thi sĩ nói riêng để trở về “cái tôi đích thực”. Có thể nói tuyệt đại đa số công dân của trái đất, đặc biệt ở các nước văn minh, đã phải đối diện với chướng ngại vật này. Và gần như tất cả đã giơ tay đầu hàng.

 

Không mở được cửa Căn Phòng Bí Mật là một chuyện, họ còn khuyên bảo nhau đừng đụng đến Căn Phòng Bí Mật ấy để giữ “cái hạnh phúc” mà họ đang được hưởng.

 

Chúng ta ân ân ái ái

tan chảy ân tình

nhưng mỗi người chỉ có thể là riêng một

một anh

một em

dù ngọt ngào chung hưởng

đắng cay chia sớt

nhưng em là em

và anh vẫn là anh


Phòng chứa bí mật của phù thủy vẫn sẵn dành (1)

để chúng ta cất giữ những ước mơ ngông cuồng hoang dại nhất

tình yêu này sẽ luôn luôn có thật

khi em được là em

và anh được là anh

với căn phòng bé nhỏ của riêng mình

 

(1) Harry Potter và Phòng Chứa Bí Mật

 

Chính vì thế những triết gia Tây Phương – quan ngại đến nhân phẩm của con người – đã phải la toáng lên. Jean Paul Sartre (1) thì báo động “Con người mang thân phận của một kẻ vong thân”. Còn Albert Camus (1) thì nói “Con người đích thực đã bất lực, để một ‘kẻ xa lạ’ xâm nhập, chiếm hữu thân xác mình.”

 

Với thi sĩ, nếu lúc nào cũng suy nghĩ, hành xử như một công dân lịch sự của một xã hội văn minh thì cửa CPBM của họ sẽ được khóa chặt, và trên những bài thơ của họ, một chữ “Xạo” thật to luôn nhởn nhơ truớc mắt mọi người.


Chủ Nghĩa Siêu Thực  ra đời nhằm giúp Nghệ Sĩ được hoàn toàn Tự Do để Sáng Tạo.

Trong loạt bài này tôi không nói đến các ngành nghệ thuật khác mà chỉ chú trọng đến Thơ - đến phương cách giúp Thi Sĩ xóa bỏ chữ Xạo trong Thơ.

 

BÀI 8


            CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC

 

Luận Điểm 

Siêu thực dựa trên triết học phân tâm của Freud.

Freud chia hoạt động tâm thần làm ba khu vực: Vùng vô thức, vùng ý thức và Cái Siêu Ngã (le sur moi) có trách nhiệm kiểm duyệt. 

Vùng vô thức chứa đựng toàn bộ những nhu cầu bản năng bị dồn nén, cấm kỵ không được phát lộ ra ngoài. Cái tôi vô thức mới là bộ mặt thật, là cái tôi đích thực của con người. Nó chi phối mọi hoạt động tinh thần.

 

Vùng ý thức chứa đng những gì đã được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội, sẵn sàng trình làng. Nó chỉ là bộ mặt bề ngoài, giả dối và ngụy tạo.

 

Cái Siêu Ngã có trách nhiệm kiểm duyệt, chỉ cho “trình làng” những gì chứa đựng ở vùng ý thức đã được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội.

 

http://thuykhue.free.fr/stt/s/breton.html

 

Tóm Tắt:

Vô thức là THẬT

Lý trí và siêu ngã là một

Lý trí là thủ phạm tạo ra chữ XẠO trong thơ, nghĩa

là bài thơ càng đậm lý trí thì nét mặt "Cô Em Sự

 Thật" càng mờ nhạt.

   

Hai Phương Cách Loại Bỏ Lý Trí Trong Thơ Của SIÊU THỰC

 

1/ Đưa “Mộng” (Mơ) Vào Thơ.

 

Mơ, đối với Freud, là thực hiện những khát vọng bản năng bị dồn nén. Khi ngủ, cơ quan kiểm duyệt không làm việc, do đó, chỉ trong mơ người ta mới thể hiện được những ham muốn bị dồn ép cấm kỵ lúc tỉnh.

 

Những điểm không thuận lợi khi đưa Mơ vào Thơ:

     a/ Hình ảnh, cảnh tượng, câu chuyện trong Mơ thường “đầu Ngô mình Sở”.

     b/ Lúc tỉnh dậy cố ghi lại giấc mơ thì chỗ nhớ, chỗ quên, tính "đầu Ngô mình Sở" càng rõ nét hơn.

     c/ Tập hợp những hình ảnh, cảnh tượng xảy ra trong mơ đưa vào bài thơ, không ít thì nhiều, cũng sẽ có bóng dáng của lý trí.

     d/ Tính "đầu Ngô mình Sở" của nội dung khiến chức năng truyền thông của bài thơ “đi tìm đồng cảm” với độc giả không thể thành công.

     e/ Một điểm nữa, quan trọng hơn cả, là Siêu Thực ở đây chỉ chú ý đến What? (viết cái gì?), còn "How?" (viết thế nào?) thì chẳng cần đề cập.


2/ Đặt Cạnh Nhau Những Nhóm Chữ Và Hình Tượng Không Liên Quan

 

Trong siêu thực, nhà thơ lắp, ghép những thực thể vô cùng xa nhau: như suối và bài hát, như ngày và khăn bàn, với điều kiện là sự gặp gỡ này nẩy ra ánh lửa, bùng lên hình ảnh lạ: bài hát chảy, ngày mở ra. (bài hát "chảy" do gợi ý của "suối", ngày "mở ra" do gợi ý của "khăn bàn")

Mục đích là loại bỏ tính lô-gic, buộc lý trí phải “đi chỗ khác chơi”.

 Thí dụ:

 

BUỒN XƯA


Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
Rượu hát bầu vàng cung ướp hương
Ngón hường say tóc nhạc trầm mi


Lẵng xuân bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa


Buồn hưởng vườn người vai suối tươi
Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời
Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu
Duyên vàng da lộng trái du ngươi

(Nguyễn Xuân Sanh)


Độc giả không thể “bắt” được tứ thơ. Chức năng truyền thông của bài thơ thất bại. Bài thơ chỉ là một mớ những con chữ vô dụng.

 

Chúng ta hãy nghe nhà phê bình nổi tiếng Đỗ Lai Thuý phát biểu sau vài lần đọc bài thơ:


“Bài thơ đọc một lần, hai lần... Ấn tượng khó hiểu, nhưng quyến rũ. Và hình như càng khó hiểu càng quyến rũ: cái hay và sự khó hiểu xoắn luyện vào nhau không thể tách bóc được? Và nhà phê bình, với số phận vô duyên của mình, cứ làm cái công việc không thể làm ấy”.

(Nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)


Với tôi, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy “cứ làm cái công việc không thể làm ấy” đúng là có số phận vô duyên thật. Bởi dù có đọc hàng vạn lần, nét quyến rũ có phủ kín tâm hồn, cũng chẳng thể hiểu được bài thơ ấy.

Như vậy với thơ, Chủ Nghĩa Siêu Thực có luận điểm hữu lý và hữu ích nhưng phương cách thực hiện thì không thành công.

Chữ Xạo vẫn đeo bám chữ Thơ. "Cô Em Sự Thật"

vẫn vắng bóng.


Phần 3: Đã Có Cách Tìm Gặp"Cô Em Sự Thật"

Gồm 2 bài

9/ Bến Bờ Thi Ca Ở Đâu?

10/ Thăm Lại Bài Thơ "Say Đi Em"


Bài 9




               BẾN BỜ THI CA Ở ĐÂU?

 

 

Mục Đích Của Thơ

 

Bày tỏ tâm trạng, suy nghĩ trước cảnh đời bằng thể loại văn học có vần.

 

Tiêu Chí Thẩm Định Giá Trị Của Bài Thơ

 

Ngôn ngữ hình tượng đẹp, đắc địa gợi cảm, câu cú ý nghĩa rõ ràng, chắc gọn, mượt mà, hoàn chỉnh trong cấu trúc ngữ pháp.

 

Bố cục hợp lý, hiệu quá.

 

Ý tứ sâu sắc, cao thượng, nhân bản,

 

 

Cảnh Báo Của Hai Triết Gia Hiện Sinh

 

Jean Paul Sartre: Con người (giả dối đến mức) đang trở thành một kẻ vong thân - đánh mất chính mình – (đánh mất “cái tôi đích thực”)(1)

 

Alberd Camus: Con người đang để một kẻ xa lạ (giả dối quá mức) chiếm hữu thân xác mình (“cái tôi đích thực”)

Những chữ trong ngoặc đơn là của PĐN.

 

 

Tiêu Chí Thẩm Định Giá Trị Của Bài Thơ Thay Đổi

 

Từ sau những lời cảnh báo của hai Triết Gia Hiện Sinh các tiêu chí để phán xét mức độ hay dở của bài thơ cũng dần dần thay đổi.

 

Bên cạnh 3 tiêu chí 1/ Ngôn ngữ, hình tượng, câu cú, 2/ Bố cục, 3/ Ý tứ giống như ở phần trên giới thưởng thức thơ, bình thơ và cả những người làm thơ còn để ý đến một tiêu chí khác: S chân thật của thi sĩ trong bài thơ.

 

Vẫn Có Cách Loại Lý Trí Khỏi Bài Thơ

 

Luận điểm: Khơi dòng để cảm xúc từ cơn cao hứng của thi sĩ tuôn chảy – sóng sau dồn sóng trước - mạnh đến mức làm thi sĩ “nổi điên”. Lý trí sẽ tạm thời trốn biệt.

 

Kết quả: Tùy mức độ hiện diện của lý trí lúc thi sĩ bộc lộ “điểm nòng cốt” của tứ thơ ta có những cung bậc khác nhau của hồn thơ (con đẻ của sự chân thật).

 

Lúc đầu đang tập tành "mò mẫm" tìm gặp hồn thơ, chỉ khi nào lý trí trốn biệt để cảm xúc toàn quyền đạo diễn bài thơ tôi mới mang danh hiệu Hồn Thơ ra ban tặng. Còn những trường hợp có bóng dáng của lý trí tôi dùng "cảm xúc tầng 3" với những tầng bậc khác nhau.


Sau này nhờ góp ý của một bậc cao nhân tôi đã gọi tên Hồn Thơ như sau:


Lý trí nắm toàn quyền lèo lái: Bài thơ - dù cũng có “cái tôi riêng tư”, có cảm xúc tầng 1 và cảm xúc tầng 2 - vẫn rất khô cứng. Không có hồn thơ.

 

Sau đó, tùy mức độ sụt giảm của của lý trí, hồn thơ xuất hiện với những cung bậc khác nhau.


Hồn thơ mới chớm

 

Hồn thơ phơn phớt nhẹ

 

Hồn thơ nhè nhẹ

 

Hồn thơ ở mức trung bình

 

Hồn thơ khá mạnh, tương đối mạnh

 

Hồn thơ mạnh

 

Hồn thơ rất mạnh, hồn thơ lai láng

 

Đây là lúc cảm xúc từ cơn cao hứng đã làm thi sĩ “nổi điên” (giận quá mất khôn, yêu quá hóa cuồng), lý trí chạy mất. “Chữ Xạo” cũng đội nón ra đi. Những gì nói ra, viết ra được xem là “lỡ lời”, thường bị chê trách vì đã làm phật ý, buồn lòng rất đông người quen với lối suy nghĩ, cách ứng xử, giao tiếp lịch sự của xã hội văn minh – nhưng lại là tiếng lòng hoàn toàn chân thật của thi sĩ.

 

Bài thơ đã được vinh dự bước vào Bến Bờ Thi Ca.

 

Khoảnh khắc quan trọng nhất của bài thơ là đoạn đường từ lúc bước vào mảng chính của tứ thơ cho đến lúc “bật ra” câu (hoặc vài câu) nòng cốt của cái mảng chính đó. “Lúc ‘bật ra’ câu (hoặc vài câu) nòng cốt của cái mảng chính đó” chính là CAO TRÀO của bài thơ.

 

Nếu bài thơ kết thúc ở cao trào, khi cảm xúc dâng lên cao ngất, thì cường độ của dòng cảm xúc đó chính là hồn thơ, truyền đến tâm hồn độc giả sẽ mạnh hơn rất nhiều.

 

Kết Luận

 

 

Đến đây chắc độc giả yêu thơ đã có thể hình dung được “vị trí” của Bến Bờ Thi Ca. Riêng các thi sĩ đang muốn đưa thơ của mình đến gần (và bước vào) khu đất vinh dự đó thì tôi hy vọng rằng những bài viết này sẽ giúp quý vị đỡ phần nào thời gian và công sức mày mò tìm kiếm.

 

Chúc quý vị thành công.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

              


 

 

Bài 10


 

           THĂM LẠI BÀI THƠ “SAY ĐI EM”

 

 

Lời Nói Đầu:

 

Nhiều năm trước tôi đã viết lời bình cho bài thơ đặc biệt này với tựa đề Say Đi Em - Một Bài Thơ “Tới Bến”. Đó là kiểu bình thơ “bài bản, trường lớp” - tiếp cận, phân tích toàn diện bài thơ – như một bài Luận Văn (Essay) ở bậc đại học.

 

Lần này, nhân dịp mở trang Blog Lý Thuyết Thơ tôi “Thăm Lại Bài Thơ” để nhấn mạnh vài “phương tiện thẩm mỹ” mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã sử dụng một cách điệu nghệ để đưa bài thơ lên đỉnh cao chót vót của nghệ thuật thi ca.

 

Những “phương tiện thẩm mỹ” đó là:

 

1/ Bố cục dàn ý hợp lý

2/ Nối kết các ý khi chuyển đoạn khéo léo.

3/ Sử dụng vần điệu nghệ - vị ngọt rất đậm nhưng không ngán

4/ Nhịp điệu sống động

5/ Dòng tứ thơ, dòng âm điệu, dòng cảm xúc – 3 dòng nhập một, chảy rất mạnh.

6/ Đoạn kết tuyệt vời

7/ Tạo được cao trào và kết thúc ở cao trào/ hồn thơ lai láng


Tứ thơ nói đến một sự thật, một nỗi tủi nhục to lớn như một bức tường thành sừng sững trong tâm hồn thi sĩ mà chỉ cần một chút lý trí còn sót lại ông cũng không dám thổ lộ.


Nhờ 7 "phương tiện thẩm mỹ" này cảm xúc trong tâm hồn ông đã dâng cao đến mức nổi điên, lý trí trốn biệt và ông đã "lỡ lời, buột miệng" nói ra cái sự thật ghê gớm đó.


Xin mời đọc tiếp lời bình.

 

SAY ĐI EM 

Tác giả: Vũ Hoàng Chương.

 

1/

 

Khúc nhạc hồng êm ái
điệu kèn biếc quay cuồng
một trời phấn hương
đôi người gió sương
đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương

 

Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?
hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
lòng nghiêng tràn hết yêu thương
bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ

 

2/

 

Ánh đèn tha thướt
lưng mềm não nuột dáng 
hàng chân lả lướt

đê mê hồn gửi cánh tay hờ

 

Âm ba gờn gợn nhỏ
ánh sáng phai phai dần
bốn tường nghiêng điên đảo bóng giai nhân
lui đôi vai, tiến đôi chân
riết đôi tay, ngả đôi thân
sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta
cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa
tay mềm mại bước còn chưa chuếnh choáng
chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời Phóng Đãng
còn chưa say hồn khát vẫn thèm men

 

3/

 

Say đi em! Say đi em!
say cho lơi lả ánh đèn
cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt
rượu, rượu nữa! Và quên, quên hết!
ta quá say rồi
sắc ngả màu trôi
gian phòng không đứng vững
có ai ghì hư ảnh sát kề môi
chân rã rời
quay cuồng chi được nữa
gối mỏi gần rơi!
trong men cháy giác quan vừa bén lửa
say không còn biết chi đời

 

4/

 

Nhưng em ơi
đất trời nghiêng ngửa
mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
đất trời nghiêng ngửa
thành Sầu không sụp đổ, em ơi

(Vũ Hoàng Chương)

 

 

Thành Sầu Của Vũ Hoàng Chương

 

VHC ngoài việc bắt buộc phải theo Tây học để tiến thân, còn cắn phải miếng mồi “ru ngủ” của người Pháp. Ông cũng lao vào những thú vui trác táng – rượu, thuốc phiện, nhảy đầm và cả gái nữa. Về điểm này, Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một đoạn khá đầy đủ:

 

Người say đủ thứ: Say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn “hơn” cổ nhân những thứ say mới nhập cảng: Say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say thơ. (3)

 

Như vậy, “thành sầu” của VHC là nỗi sầu đất nước bị ngoại bang đô hộ, dân tộc bị chúng làm tha hóa, băng hoại bằng đủ mọi âm mưu thâm độc.

 

Trớ trêu thay, chính ông lại góp tay, giúp sức cho bộ máy cai trị ấy, chính ông lại lậm vào những cuộc chơi trác táng do chúng đặt ra, không những tự làm hỏng mình mà còn làm gương xấu cho lớp trẻ, rường cột của tương lai dân tộc.

 

Ông cảm thấy tội lỗi, tủi nhục, uất ức và chất ngất buồn sầu.

 

Tứ Thơ

 

Trong một đêm đi nhảy ở vũ trường, gặp “bạn nhảy cũ”, tác giả mời nàng đối ẩm, có ý muốn mượn rượu để giải sầu, nhưng uống đến mức “say không còn biết chi đời” mà nỗi sầu vẫn sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.

 

Bố Cục Dàn Ý

 

Bài thơ có thể chia làm 4 đoạn:

 

1/ Đoạn mở đầu 10 câu, thiết lập khung cảnh của bài thơ: Đến vũ trường, gặp người tình cũ đang là ca ve ở đấy. Tình đã héo nhưng chân còn “ngứa ngáy” nên xáp lại.

 

2/ Đoạn hai 16 câu: Cảm giác “Đê mê hồn gửi cánh tay hờ” khi đang dìu em trên sàn nhảy lúc rượu đã ngà ngà.

 

3/ Đoạn ba 13 câu: Mời em cùng uống cho đến khi “say không còn biết chi đời”.

 

4/ Đoạn kết 5 câu: Nỗi sầu vẫn còn đó – sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.

 

Vần Và Dòng Chảy Của Tứ Thơ

 

Về hình thức, tác giả sử dụng thể Thơ Mới, nhưng không phải lối thơ Trường Thiên (mỗi đoạn 4 câu) mà là thể thơ nhất khí liền mạch – một hơi từ câu đầu đến câu cuối. Nhưng cũng không phải như Nhớ Rừng của Thế Lữ – cứ 8 chữ một câu với vần liên tiếp, đọc lên nghe rất ngán.

Có thể tạm gọi đây là một loại Thơ Mới Biến Thể, rất gần với Thơ Tự Do.

 

“Say Đi Em” rất phóng khoáng. Có đôi chỗ ngừng là do tác giả muốn chuyển ý, đổi vần chứ không phải do đòi hỏi của luật thơ. Ông cũng tạo ra một số thay đổi, vừa tránh được trói buộc của luật tắc, vừa có thể nhấn mạnh điểm chính của tứ thơ.

 

1/ Số câu trong bài không giới hạn, viết hết ý, hết hứng thì thôi.

 

2/ Số chữ trong câu thay đổi (với biên độ rộng) một cách tùy tiện, tùy hứng. Câu ngắn nhất 3 chữ (Chân rã rời), câu dài nhất 13 chữ (Hoa xưa tươi, trăng xưa đẹp, gối xưa kề, tình nay sao héo). Nhờ thế, nhịp điệu thơ thay đổi liên tục.

 

3/ Vần rất đậm, nhưng không có hội chứng nhàm chán vần, đọc lên không thấy ngán. Câu sau nối tiếp câu trước, tứ thơ và cảm xúc cứ thế tuôn chảy thành dòng. Lý do: Nhịp điệu thay đổi cộng với sự giúp sức của mấy đoạn gieo vần gián cách:

 

Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng 
Hàng chân lả lướt

Đê mê hồn gửi cánh tay hờ

 

Và:


Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời

 

Thêm vào đó, để thay đổi không khí, còn có hai câu thơ lục bát mượt mà ở đoạn đầu:

 

Lòng nghiêng tràn hết yêu thương

Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ

 

và sự phối hợp một cách tài tình điệp ngữ, điệp vận với vần ôm ở đoạn kết.

 

Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổem ơi!

 

 Ở thời điểm trước năm 1940 mà đã sử dụng vần phóng khoáng và điệu nghệ như vậy thì thật đáng nể phục.

 

4/ Chuyển đoạn ăn khớp: Cũng xin nói đến một điểm nổi bật về kỹ thuật thơ của VHC là sự chuyển đoạn ăn khớp, khéo léo – từ ý này bước qua ý khác rất ngọt.

 

     a/ Đoạn 1 qua đoạn 2

 

Từ:

 

Lòng nghiêng tràn hết yêu thương

Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ.

 

qua:

 

Ánh đèn tha thướt

Lưng mềm não nuột dáng tơ

Hàng chân lả lướt

Đê mê hồn gửi cánh tay hờ.

 

Vừa nói “hết yêu nhưng còn mê nhảy” đã chuyển qua cảnh ôm em trên sàn nhảy. Sự kết nối thật tương hợp.

 

     b/ Đoạn 2 qua đoạn 3

 

Từ:

 

Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men

 

qua:

 

Say đi em! Say đi em!

 

Đều nói đến rượu, kết nối hợp lý.

 

     c/ Đoạn 3 qua đoạn 4

 

Từ:

 

Say không còn biết chi đời

 

qua:

 

Nhưng em ơi

Đất trời nghiêng ngửa

 

Vừa thú nhận “Say không còn biết chi đời” đã thấy “Đất trời nghiêng ngửa”. Mối liên hệ nhân quả, không một kẽ hở.

 

Nhờ sự chuyển đoạn khéo léo như vậy nên tứ thơ thông thoáng, bài thơ nhất khí liền mạch, cảm xúc lớn mạnh nhanh chóng.

 

Điệp Vận Ở Phần Sau Đoạn 3 – Nói Về Cơn Say

                                                                                 

Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời

 

Có 9 câu thơ ngắn mà đến 6 lần vần ôi (hoặc ơi) – điệp vận đến mức thoạt nhìn qua là đã mất cảm tình. Nhưng thật lạ! Đọc lên không những không thấy ngán mà còn thấy hồn mình như bị dính chặt vào ý thơ – cơn say thực sự, “say không còn biết chi đời” – của tác giả.

 

Với cơn say ở đỉnh điểm như vậy, không còn chỗ cho lý trí và con đẻ của nó là sự dối trá, bám víu. Năm câu sau của đoạn kết đúng là tiếng lòng chân thật.

 

Điệp vận kiểu ấy, theo tôi, nếu là người làm thơ tỉnh táo, chắc là sẽ tránh xa. VHC, trong lúc lạc lần trí, đã hiên ngang bước vào “bãi mìn” ấy. Nhưng nhờ thế, đã tạo được một đoạn thơ độc đáo, có giá trị như một con dấu chứng nhận sự chân thật cho đoạn kết, góp phần hết sức quan trọng vào sự thành công của thi phẩm Say Đi Em.

 

Đoạn Kết Tuyệt Vời

 

Sau khi đã uống đến “Say không còn biết chi đời” thi sĩ đã cho tuôn ra đoạn thơ:

 

Nhưng em ơi!
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!

 

Đoạn thơ hay cả về ngôn ngữ, thi ảnh, cấu trúc, âm điệu và nhịp điệu. Đặc biệt điệp ngữ ở hai cụm từ “em ơi” và “Đất trời nghiêng ngửa” cho độc giả như tôi cái cảm giác đang nghe CODA kết thúc một bản nhạc, được viết rất khéo bởi một nhạc sĩ tài ba.

 

Thành sầu của ông như đang chịu một trận động đất mạnh đến mức “đất trời nghiêng ngửa” mà vẫn “chưa sụp đổ và đã chuyển từ chỗ “chưa sụp đổ” – còn chờ đợi, còn một chút hy vọng mong manh – đến chỗ “không sụp đổ” – nghĩa là đã hoàn toàn tuyệt vọng.

 

Nỗi buồn sầu đã dâng lên đến đỉnh điểm. Chữ “không” ở câu cuối “đắt” như kim cương và ẩn dụ của cả đoạn thơ thật tuyệt vời.

 

Cảm Xúc Dâng Tràn – Hồn Thơ Lai Láng

 

Cảm xúc tầng 1:

 

 

Theo tôi, VHC thành công trong việc trao tặng độc giả những cảm giác khoái trá ở tầng 1. Ngôn ngữ thơ của ông chắt lọc, trau chuốt, hình tượng đẹp một cách lộng lẫy, kiêu sa, câu thơ mạch lạc, trong sáng. Nói theo ngôn ngữ bóng đá, kỹ thuật cá nhân của các cầu thủ trong Say Đi Em điêu luyện, thuộc đẳng cấp cao, nhìn qua là thấy có cảm tình và nể phục.

 

Cảm xúc tầng 2:  

 

Trong Say Đi Em thế trận chữ nghĩa được dàn trải hợp lý, tạo hiệu quả tối đa cho việc chuyển tải tứ thơ. Vần và nhịp điệu giúp dòng chảy của tứ thơ thông thoáng. Độc giả như được xem một trận bóng đá mà đội phe mình công thủ, lên xuống nhịp nhàng, đấu pháp toàn đội kín kẽ, hoàn hảo.

 

Cảm xúc tầng 3:

 

Là thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ – nếu đến mức dâng tràn, ta có hồn thơ lai láng. Để có hồn thơ lai láng bài thơ cần mấy điều kiện sau đây:

 

1/ Tứ thơ không phân mảnh đứt đoạn mà phải được dàn trải sao cho ý này nối tiếp ý kia, không ngừng nghỉ.

 

2/ Thể thơ phải như con kênh thông thoáng để khi câu chữ từ tứ thơ tuôn xuống có thể thành dòng thơ. Trong Say Đi Em, chỉ mới bước vào đầu đoạn 2 là men rượu đã ngấm, cảm xúc quyện lấy tứ thơ và âm điệu để cùng chảy một dòng. Đến đoạn 3, với hiệu ứng đặc biệt của dòng âm điệu, dòng thơ chảy rất nhanh và rất mạnh.

 

3/ Thi sĩ phải nổi điên để cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí. Trường hợp Say Đi Em, bắt đầu đoạn 3 là lý trí đã trốn chạy khá xa, đến cuối đoạn thì lý trí đã biệt tăm, biệt tích, thi sĩ đã “Say không còn biết chi đời”. Hơn nữa, nội dung bài thơ lại thuộc loại “ngược dòng” nên “cơn điên” phải cực mạnh và “nhiệt độ sôi của cảm xúc” phải rất cao mới có thể phủ mờ lý trí để vuợt qua nỗi Sợ Xấu, Sợ Nhục với người đời cuả VHC.

 

4/ Phải kết hợp để khi cảm xúc lên đến đỉnh điểm (cao trào) thì cũng là lúc thi sĩ tuôn ra điểm cốt yếu của tứ thơ. Đó sẽ là tiếng lòng chân thật của ngài. Ở Say Đi Em là đoạn 3 và đoạn 4.

 

Kết Luận

 

Say Đi Em không những có đủ 4 điều kiện trên mà điều kiện nào cũng đạt đến mức hoàn hảo nên hồn thơ cực mạnh.

 

Hơn nữa, bài thơ lại kết thúc ở cao trào nên hồn thơ không những cực mạnh lại còn có sức ngân vang trong tâm hồn người đọc mặc dù bài thơ đã hết.

 

Tôi cho rằng cùng với thi phẩm Say Đi Em của mình, Vũ Hoàng Chương không những đã có thể bước vào Bến Bờ Thi Ca mà còn xứng đáng ngồi vào hàng ghế trang trọng nhất.

 

PHẠM ĐỨC NHÌ

nhidpham@gmail.com

https://lythuyetthoabc.blogspot.com/

 
Bài 11

Gặp "Cô Em Sự Thật"

     

THĂM LẠI BÀI THƠ TRÁI TIM RAO BÁN”

 

Lời Nói Đầu:


Tôi đã viết lời bình cho bài thơ Trái Tim Rao Bán của Đinh Thị Thu Vân từ rất lâu. Lần này tôi thăm lại bài thơ, bàn thêm về những "phương tiện thẩm mỹ" đã nâng giá trị của thi phẩm đặc biệt này lên một tầm cao mới để làm thí dụ cho hai phần quan trọng trong trang blog Lý Thuyết Thơ là Kỹ Thuật Thơ và Bến Bờ Thi Ca


(Bàn thêm về Vần, chữ Dâm  Hồn Thơ)

 

 

TRÁI TIM RAO BÁN

 

Có thể
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán

 

Một ngày
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau - 
niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán

 

Một ngày
mỏi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!

 

Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!

một chút tình
cho bớt chông chênh

 

(Đinh Thị Thu Vân)

 

 

Vài Nhận Xét Thêm         

 

1/ Tìm hiểu tứ thơ

 

Đoạn đầu:

 

Có thể
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán

 

Bỗng dưng nữ sĩ Đinh Thị Thu Vân lại nghĩ đến cái ngày “phải xót xa, xót xa đem trái tim mình rao bán”. Chị lập lại hai chữ “xót xa” để “thông báo” là nỗi buồn, nỗi cô đơn đã lớn mạnh đến mức phải nghĩ đến chuyện “kỳ cục” đó.

 

Động từ chia ở thì tương lai nhưng nỗi buồn, nỗi cô đơn, khao khát tình yêu lại đang hiện hữu rất sâu đậm trong lòng chị ngay phút giây hiện tại này đây.

 

Ở đoạn kế tiếp:

 

Một ngày
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau - 
niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán

 

tác giả cho biết nỗi đau buồn đó dâng cao lên một tầng bậc mới, lúc mà khung cảnh “tình yêu biền biệt, hạnh phúc mù khơi” thúc đẩy những con chữ thấm đẫm nước mắt rơi xuống trang thơ, cho nên dù chỉ còn lại “trái tim biết đớn đau - niềm kiêu hãnh cuối cùng” - chị cũng phải “phũ phàng rao bán”.

 

Phần đầu đoạn kết:

 

 

Một ngày
mỏi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!

 

Đây chính là giây phút chuyển biến thần tình của tứ thơ. “Mỏi mòn trong ảo vọng” chính là lúc cơn khát tình đã lên rất cao. Rao bán trái tim mà “không cần chọn lựa người mua” – không cần biết người đàn ông sẽ đến với mình là ai - nghĩa là chữ Tình đã đội nón ra đi để chữ Dâm độc chiếm thể xác và tâm hồn chị. Nói bạch văn là  “Khát Tình” đã biến thành “Thèm Chim”.

 

 

Như thế cũng chưa hết. Rao bán mà “không cần sòng phẳng” – cho người mua được toàn quyền quyết định giá cả - có nghĩa là cũng sẵn sàng cho không “món hàng quý giá” của mình. Đọc đến đây chắc độc giả cũng đồng ý với tôi là cơn “thèm chim” của Đinh Thị Thu Vân đã lên cao ngất.

 

Đây chính là cao trào của bài thơ. Dòng tứ thơ và dòng cảm xúc trong cơn điên đã dâng lên đến đỉnh điểm và gặp nhau ở đó. Lý trí đã trốn biệt. Tâm tình được gởi đến độc giả là những lời thơ CHÂN THẬT.

 

Đoạn kết phần sau:

 

Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!

một chút tình
cho bớt chông chênh...

 

Nhóm chữ một chút tình - được lập đi lập lại ở đoạn kết, lúc “độ nóng” của cơn điên vẫn còn nhưng đang từ từ hạ xuống; “một chút tình” đó không phải là “sự tương hợp của hai tâm hồn đồng cảm” hoặc kém hơn một chút là tình một chiều – “ta yêu chàng mà chàng chẳng yêu ta”. Ở đây chỉ là một chút thương hại của người với người.

 

Đây là sự khác biệt lớn giữa Trái Tim Rao Bán của Đinh Thị Thu Vân và Cánh Đồng (1) của Nguyễn Đức Tùng. Với Nguyễn Đức Tùng thì “Khi cơn ‘khao khát dục tình’ đã lên cao thì thoả mãn chữ Dâm với người ngoài hành tinh  cũng có thể chấp nhận được”. Còn Đinh Thị Thu Vân thì dù “thèm chim” đến nổi điên, đối tượng của chị vẫn là Con Người trên trái đất.

 

 

2/ Tứ thơ:

 

Nếu đọc lướt qua sẽ thấy tứ thơ rất đơn giản và “rất hiền” như sau:

 

Tác giả lên tiếng rao bán trái tim mình rồi hé mở cho biết lý do, và sau cùng là giá cả - rất đặc biệt.

 

Nhưng nếu lặn sâu một chút và đọc “giữa hai hàng kẻ” sẽ thấy:

 

Tác giả đột nhiên cảm thấy thèm khát dục tình đến cùng cực, sẵn sàng “tặng không” thân xác mình cho bất cứ ai.

 

3/ Kiếm Tông hay Khí Tông?

 

Đây là bài thơ Khí Tông, tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng từ câu đầu đến câu cuối.

 

5/ Ngôn ngữ thơ: Bình dị, dễ hiểu. Những nhóm chữ “mù khơi hạnh phúc”, “biền biệt tình yêu”, “mỏi mòn trong ảo vọng” đã diễn tả thành công một cách xuất sắc tâm ý của tác giả mà không phải dài dòng biện giải, hai chữ “chông chênh” tượng hình và đặc sắc cả về nghĩa lẫn âm.

 

4/ Số chữ trong câu thay đổi tự do, không bị luật tắc nào bó buộc. Nhịp điệu không đều đều buồn tẻ mà có vẻ uyển chuyển, sinh động.

 

6/ Nội dung lọt vào vùng cấm, không “phải đạo” mà chảy ngược dòng với nếp suy nghĩ và cách hành xử của người đời. Tâm thế của Đinh Thị Thu Vân lúc đó nếu không thuộc loại “get it off your chest” - cho bung ra khỏi ngực (chứ giữ lại thì chịu không nổi) mà chỉ cần một chút lý trí còn sót lại, chị cũng sẽ chùn bước, không dám đi tới bến.

 

7/ Không vờn bóng giữa sân: Các con chữ nối tiếp nhau trôi thẳng xuống điểm đến của tứ thơ.

 

8/ Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 mạnh mẽ; cảm xúc tầng 3 thì khỏi nói – cơn “thèm chim” đã lên rất cao nên "có thể nói" là hồn thơ lai láng.

 

 

9/ Giá mà vần NGỌT hơn ít nữa: Bài thơ Trái Tim Rao Bán tôi không dám chê là vần thiếu ngọt, nhưng dòng âm điệu chảy không được mạnh lắm. Tôi nghĩ  nếu ở 2 đoạn sau có chút “thủ thuật” điệp vận nào đó khiến các con chữ và hình tượng nối kết chặt chẽ hơn nữa thì sẽ giúp tăng vận tốc và cường độ của dòng âm điệu. Dĩ nhiên, sẽ ảnh hưởng đến dòng cảm xúc. Lúc đó tôi sẽ khẳng định - chứ không phải dè dặt “có thể nói” - là hồn thơ lai láng

 

10/ Không kết thúc ở cao trào

 

Phn sau của đoạn kết:

 

Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!

một chút tình
cho bớt chông chênh...

 

 

được dùng để vừa giải thích vừa nhấn mạnh “Cơn Dâm của ta đã lên cao chót vót, nhưng ta chỉ muốn thỏa mãn cơn Dâm đó với con người trên trái đất, còn những chủng loại khác hoặc ‘người’ ở hành tinh khác thì xin mời đi chỗ khác chơi.”

 

Tôi thích cái ý này của chị. Theo tôi, nó đậm tính nhân văn hơn ý của Nguyễn Đức Tùng trong bài thơ Cánh Đồng. Nhưng để có được hai chữ “nhân văn” đó bài thơ đã phải có mấy câu giải thích và đã  không thể kết thúc ở cao trào.

 

Điểm đặc biệt nữa của Trái Tim Rao Bán là tứ thơ thì “tục”, bộc lộ những điều mà phụ nữ “kiêng kỵ” nhưng lời thơ lại rất thanh. Chị dùng thủ pháp “Show, Don’t Tell” (Gợi, Không Kể) để bóng gió nói đến cơn “Thèm Chim” của mình.

 

Tôi rất mong chị và những độc giả nghiêm túc thông cảm cho việc đưa hai chữ “Thèm Chim” vào bài bình. Tại tôi quá mê và muốn làm nổi bật tính nhân văn của bài thơ nên đã đánh liều dùng đến hai chữ này. Tôi nghĩ hai chữ “Thèm Chim ở đây sẽ làm nét đẹp tổng thể của bài thơ rõ ràng hơn, cao hơn, sang trọng hơn.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

https://lythuyetthoabc.blogspot.com/

  

CHÚ THÍCH: 

 

1/ https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/12/canh-ong-mot-bai-tho-la.html


   

BẠN THÍCH THƠ ĐẸP HAY THƠ CÓ HỒN?



Hỏi để hỏi vậy thôi chứ nếu bạn đã cùng tôi dõi

theo "hướng đi mới của thơ" để tìm gặp Cô Em Sự

Thật thì lẽ nào bạn lại vô tình với Hồn Thơ.

Vâng! Cô Em Sự Thật an trú trong Hồn Thơ,

hay nói khác đi, Hồn Thơ chính là Cô Em Sự Thật. 

 

Lê Đạt và Tô Thùy Yên là hai tài năng thơ đặc biệt

của Văn Học Việt Nam. Khi đất nước chia đôi năm

1954, Lê Đạt ở miền bắc. Từ những năm 50 ông đã

nỗ lực thay đổi bộ mặt của hình thức thơ. Về nội

dung, ông tham gia phong trào Nhân Văn Giai

Phẩm, đứng về phía nhân dân chĩa mũi dùi vào

những bất công, bất cập của chế độ.

 

Bài thơ Nhân Câu Chuyện  Mấy Người Tự Tử được

nhiều người biết đến và một thời đã gây xao động

văn đàn miền bắc.

 

Tô Thùy Yên ở miền nam. Cũng vào những năm

cuối thập niên 50 ông nằm trong nhóm Sáng Tạo,

tìm một hướng đi mới cho thơ ca và văn học miền

nam. Sau năm 1975, ông bị đi cải tạo 10 năm.

Được thả, ông sáng tác bài Ta Về được rất nhiều

người tìm đọc và khen ngợi.


Hai bài thơ của hai tài năng thơ ca này có điểm

giống nhau là đều dài nhưng lại khác nhau về mặt

hình thức.


1/ Ta Về có hình thức là Thơ Mới Trường Thiên

 phân mảnh đứt đoạn.


Bài thơ gồm 124 câu, 868 chữ, chia làm 31 đoạn.

 Mỗi đoạn 4 câu, mỗi câu 7 chữ, có thể đứng độc

 lập như một bài thơ hoàn chỉnh, diễn tả một mảnh

 tâm trạng của tác giả.


2/ Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử có

 dạng Thơ Mới Biến Thể, Nhất Khí Liền Mạch 


Bài thơ có 900 chữ, thêm đoạn Tái Bút 358 chữ,

tổng cộng 1258 chữ. Số chữ trong câu thay đổi với

biên độ rộng, gieo vần liên tiếp, dàn trải liên tục t

câu đầu đến câu cuối.


Xét về nét đẹp văn chương thì Ta Về nổi trội hơn

nhiều. Mỗi đoạn là một “bài thơ’ ngắn cô đọng, súc

tích và rất đẹp.


Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử thì ngôn ngữ,

câu cú dễ tiêu, dòng chảy xiết, “sóng sau dồn sóng

trước”, Hồn Thơ mạnh.

 

Mời bạn thưởng thức 2 tuyệt tác thi ca và sau đó là

mấy lời bình ngắn về nét đẹp riêng của mỗi bài

thơ.

 

 

Ta Về

Ta về một bóng trên đường lớn

Thơ chẳng ai đề vạt áo phai

Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ

Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay


Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp

Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu

Mười năm mặt sạm soi khe nước

Ta hóa thân thành vượn cổ 


Ta về qua những truông cùng phá

Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may

Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ

Nghe tàn cát bụi tháng năm bay


Chỉ có thế. Trời câm đất nín

Đời im lìm đóng váng xanh xao

Mười năm, thế giới già trông thấy

Đất bạc màu đi, đất bạc màu


Ta về như bóng chim qua trễ

Cho vội vàng thêm gió cuối mùa

Ai đứng trông vời mây nước đó

Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ


Một đời được mấy điều mong ước

Núi lở sông bồi đã mấy khi

Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động

Mười năm, cổ lục đã ai ghi


Ta về cúi mái đầu sương điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

Cảm ơn hoa đã vì ta nở

Thế giới vui từ nỗi lẻ loi


Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa

Làng ta ngựa đá đã qua sông

Người đi như cá theo con nước

Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng


Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Chút rượu hồng đây xin rưới xuống

Giải oan cho cuộc biển dâu này


Ta khóc tạ ơn đời máu chảy

Ruột mềm như đá dưới chân ta

Mười năm chớp bể mưa nguồn đó

Người thức mong buồn tận cõi xa


Ta về như hạt sương trên cỏ

Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời

Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt

Tội tình chi lắm nữa người ơi


Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ

Mười năm người tỏ mặt nhau đây

Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi

Đành uống lưng thôi bát nước mời


Ta về như sợi tơ trời trắng

Chấp chới trôi buồn với nắng hanh

Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng

Dừng chân nghe quặn thắt tâm can


Lời thề buổi ấy còn mang nặng

Nên mắc tình đời cởi chẳng ra

Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ

Mười năm ta vẫn cứ là ta


Ta về như tứ thơ xiêu tán

Trong cõi hoang đường trắng lãng quên

Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách

Nhện giăng, khói ám, mối xông nền


Mọi thứ không còn ngăn nắp 

Nhà thương-khó quá sống thờ ơ

Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ

Khách cũ không còn, khách mới thưa


Ta về khai giải bùa thiêng yểm

Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi

Hãy kể lại mười năm chuyện cũ

Một lần kể lại để rồi thôi


Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn

Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà

Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?

Mười năm, cây có nhớ người xa?


Ta về như đứa con phung phá

Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu

Mười năm, con đã già trông thấy

Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu


Con gẫm lại đời con thất bát

Hứa trăm điều một chẳng làm nên

Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn

Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên


Ta về như tiếng kêu đồng vọng

Rau mác lên bờ đã trổ bông

Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng

Chờ anh như biển vẫn chờ sông


Ta gọi thời gian sau cánh cửa

Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu

Ta nghe như máu ân tình chảy

Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau


Ta về dẫu phải đi chân đất

Khắp thế gian này để gặp em

Đau khổ riêng gì nơi gió cát

Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm


Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa

Đêm chưa khuya quá hỡi trăng 

Tình xưa như tuổi già không ngủ

Thức trọn, khua từng nỗi xót xa


Ta về như giấc mơ thần bí

Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui

Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng

Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi


Bé ơi, này những vui buồn cũ

Hãy sống, đương đầu với lãng quên

Con dế vẫn là con dế ấy

Hát rong bờ cỏ giọng thân quen


Ta về như nước Tào Khê chảy

Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ

Thân thích những ai giờ đã khuất

Cõi đời nghe trống trải hơn xưa


Người chết đưa ta cùng xuống mộ

Đâu còn ai nữa đứng bờ ao

Khóc người ta khóc ta rơi rụng

Tuổi hạc ôi ngày một một hao


Ta về như bóng ma hờn tủi

Lục lại thời gian kiếm chính mình

Ta nhặt mà thương từng phế liệu

Như từng hài cốt sắp vô danh


Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa

Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời

Ai đó trong hồn ta thổn thức

Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi


Ta về như hạc vàng thương nhớ

Một thủa trần gian bay lướt qua

Ta tiếc đời ta sao hữu hạn

Đành không trải hết được lòng ta.

Tô Thùy Yên



Kỹ Thuật Thơ:

1/ Thể thơ: Thơ Mới Trường Thiên, phân mảnh đứt đoạn. 

2/ Dòng tứ thơ: Không có dòng tứ thơ. Chỉ có 31 "hố thơ"

3/ Vần: 26 đoạn vần gián cách 2/4, 4 đoạn vần gián cách cả 1/3 lẫn 2/4, 1 đoạn vần liên tiếp. Hội chứng nhàm chán vần khá nặng.  

4/ Số chữ trong câu: Mỗi câu 7 chữ, không đổi, cứng ngắc. 

5/ Dòng âm điệu: Không có dòng âm điệu (dòng nhạc)

5/ Nhịp điệu: Nhịp điệu đều đều, tẻ nhạt

6/ Dòng cảm xúc: Không có dòng cảm xúc 

7/ Độ dài: Bài thơ dài 868 chữ chia thành 31 đoạn, mỗi đoạn 4 câu

8/ Cảm xúc tầng 1 (đến từ câu chữ, biện pháp tu từ): Manh

9/ Cảm xúc tầng 2 (đến từ bố cục, thế trận): Trung bình.

10/ Hồn thơ: Không có hồn thơ



 

Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử

Lê Đạt

Ðọc báo Nhân dân số 822

Có đăng tin mấy người tự tử

Vì câu chuyện tình duyên trắc trở

Ðêm mùa hè nóng nôi như lửa

Tôi ngồi làm thơ

Vừa giận, vừa thương mấy người xấu số

Chân chưa đi hết nửa đường đời

Ðã vội nằm im dưới mộ

Cuộc sống cho dù lắm mưa nhiều gió

Nhiều cay đắng xót xa

Cũng còn đẹp gấp vạn lần cái chết

Chết là hết

hết đau

hết khổ

Nhưng cũng hết vầng trăng soi sáng trên đầu

Hết những bàn tay e ấp tìm nhau

Len lén, bước chân hò hẹn

Bây giờ gặp gỡ nơi đâu?

Dù có chết cùng nhau

Cũng vẫn là chia tay vĩnh viễn

Trời đầu xuân mây vần bão chuyển

Có lạnh không?

Tôi biết hai người khổ lắm

Còn gì buồn bằng không được yêu nhau

Nhưng sao lại chết?

Nhà đạo đức vuốt hàng râu mép

Hạ kính

lắc đầu

Chép miệng

“Hòa bình chủ nghĩa

Tôi không nghĩ vội vàng như thế

Tôi đã từng yêu

từng đã khổ nhiều

Nhưng không thể tán thành cái chết

Tôi không thích loại cúi đầu theo số kiếp

Không sống cùng nhau

Thà chết cùng nhau

Con người ta cần cứng một cái đầu

Chọi nhau cùng số kiếp

Cắn răng vào cứ sống cứ yêu

Khi Lương Sơn Bá tương tư trên giường bệnh

Ngày một võ vàng

Ôm bóng người yêu mà chết

Khi Chúc Anh Ðài xăm xăm vào huyệt

Theo nhau cho trọn lời nguyền,

Cả rạp lặng yên

Những chiếc khăn tay đầm đìa nước mắt,

Sự thật cuộc đời đắng cay hơn nghệ thuật,

Lương Sơn Bá, Chúc Anh Ðài

Sống không được yêu nhau,

Chết còn được hóa thành đôi bướm,

Nhưng mấy người tự tử

Xác bây giờ mục nát dưới mồ,

Biết ai thương họ?

Có phải vì chúng ta quá yêu người 

Mà quên người sống bây giờ?

Có phải vì chúng ta mất nhiều trong Kháng chiến,

Nên chủ trương tiết kiệm lòng mình?

Có phải vì chúng ta muôn việc rối tinh

Ðành xếp lại chuyện mấy người tự tử?

Lịch sử trải qua bao nhiêu đau khổ

Những người chết thiêu trong lửa

Những người chết gục trong 

Những người chết treo trên cột

Tùng xẻo lăng trì

Rỏ máu trên bàn thờ nhân loại

Cho con người được làm người

Cho con người được yêu được sống

Tôi muốn gào lên cho đến khi lạc giọng

“Không gì đau thương bằng mất một con người"

Sao họ lại đưa nhau đi tự tử

Có phải họ không bằng lòng chế độ

Bất mãn với cuộc đời?

Không.

Họ chưa hai mươi

Cô bé hôm nào mới lớn

Soi trộm vào gương, thấy má mình hồng

Nghĩ đến chuyện lấy chồng

đỏ mặt

Người con trai ngồi trên gò đất

Thổi sáo gọi người yêu

Làm nắng chiều

dừng lại

Lúa đương thì con gái

Cũng thấy rộn trong lòng

Xôn xao gió thổi

Ðầu sát bên đầu bàn chuyện tương lai

Thôn xóm tan dần bóng đen địa chủ

Cuộc đời như ánh trăng mỗi ngày một tỏ

Sáng bừng lên

trong những chiếc hôn đầu

Chế độ ta không cấm họ yêu nhau

Mà sao họ chết?

Người công an đứng ngã tư

đường phố

Chỉ huy

bên trái

bên phải

xe chạy

xe dừng

Rất cần cho việc giao thông.

Nhưng đem bục công an

máy móc

đặt giữa tim người

Bắt tình cảm ngược xuôi

Theo đúng luật đi đường nhà nước

Có thể gây rất nhiều chua xót

ngoài đời

Ngày Phật đản vừa rồi được nghỉ

Tôi đến nhà Văn Cao

Hai đứa rủ nhau

đi ăn thịt chó

Văn Cao vốn là người nể vợ

Ăn xong mua một gói về nhà

Tôi bỗng giật mình,

(nhưng không để lộ ra)

Người chủ xé thơ tôi

gói thịt

Ngay lúc đó tôi chỉ còn muốn chết

Như dại như điên tôi oán đất, oán trời.

Nhưng hôm nay tôi chỉ oán mình tôi

Thơ tôi bị cuộc đời ruồng bỏ

Vì tôi đã ngủ quên trong chế độ

Vẽ phấn bôi son, tô toàn màu đỏ

La liệt đầy đường hoa nở

chim kêu

“Tốt tốt!

xà và!

tốt tốt!”

Qua thơ tôi

cuộc đời như hết chuyện

Có thể khoanh tay yên trí đi nằm

Như Thượng đế bước sang ngày thứ tám

Không! Không!

bóng những ngày xưa u ám

Còn lởn vởn che cuộc đời như gấu ăn giăng

Cải cách đợt năm

Tôi có qua thăm nhiều thôn xóm

Những cây lúa cúi đầu dưới ruộng

Ðã ngẩng mặt lên trời

Mơ ước mấy nghìn đời

biểu tình trên dãy thẻ

Lũy tre làng phơi phới bay xa

Mở rộng cửa đón những ông chủ mới

Ruộng đất nông dân được đội về cởi trói

Nhưng còn tim

còn óc con người?

Giữa năm Cộng hòa lớn khôn mười một tuổi

Vẫn còn lọt lưới

nhiều thói “an nam”

Dán nhãn hiệu

“Made in Cách mạng”

Ngang nhiên xúc phạm con người

Ðẩy họ đi tự tử.

Phải quét sạch mây đen cho chân trời rộng mở

Chặt hết gông xiềng

cho những cánh tung lên

Ngày và đêm

mộng bay đầy cuộc sống

Khát vọng theo khát vọng

Không gì ngăn cản con người.

Hà Nội, tháng 6-56

Lê Đạt



 Tái Bút

 

 

Bài thơ đến đây, đáng lẽ là chấm hết

Nhưng tác giả đọc cho mấy người quen biết

Thấy cần tái bút đôi lời

Một anh bạn chửi tôi:

“Hết chuyện rồi sao

Mà lại đẽo đến chuyện người tự tử

Ngậm mực phun đen chế độ

 

Anh bạn ơi!

Tôi khuyên anh

Không đẹp gì cái lối vu oan giá hoạ

Ném bã rượu vào nhà người

“Trăm năm bia đá thời mòn

Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”

Lịch sử luôn luôn duyệt lại

Không ai lừa được cuộc đời

Trước tòa án ngày mai

 

Mấy thằng bán rẻ ông cha đi làm chó

Đánh hơi gật gù

“Lại một thằng làm thơ bất mãn”

Lân la xán đến gần

Hoa chân múa tay

Rêu rao miền Bắc

Trong kia miền Nam

Thế này

Thế khác.

Cút ngay đi! Đừng giở trò kiếm chác

Ăn bẩn sủa càn

Đất nước trong khó khăn

Đối với chúng ta càng yêu càng quý

Con thương cha mẹ

Lúc ốm

Lúc đau

Chén thuốc múi chanh bảo nhau chạy chữa.

 

Tôi chưa quên những ngày qua đau khổ

Kiếp sống nặng trên vai

Như một án 

Cắt tóc đi tu

Tu không trọn

Thuốc phiện dấm thanh không thoát nợ đời

Mười tám tuổi già hơn ông cụ:

Tôi đã biết thế nào là tự tử

Nên tôi yêu thiết tha cuộc đời

Càng yêu cuộc đời

Tôi càng yêu chế độ

Chế độ của tôi

Sống để bụng

Chết mang theo dưới mộ

Nhưng yêu thương

Không có nghĩa là tụng kinh gõ 

Bán dầu cù là

 

Xoen xoét “vì Đảng vì Dân

Để lừa Dân lừa Đảng

Cuộc sống đòi hỏi người làm thơ can đảm

Vạch mặt những con sâu cách mạng

Ẩn núp trong nếp cờ

Đội mũ đi hia

Phè phỡn trên lưng chế độ

 

Tôi trở lại chuyện mấy người tự tử

Họ đúng hay sai,

Thôi để họ nằm yên ngủ

Dù khen dù chê

Họ cũng đã chết rồi

Nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ những người

Còn sống

Phải hiểu

Phải yêu

Phải trọng

Con người

 

Hà Nội, tháng 7-56



Kỹ Thuật Thơ:

1/ Thể thơ: Thơ Mới Biến Thể, nhất khí liền mạch/ Tứ thơ chảy thành dòng.

2/ Vần: Vần chân là chính, chỗ đậm chỗ nhạt, không có quy củ.

3/ Số chữ trong câu: Thay đổi với biên độ rộng

4/ Dòng âm điệu: Thông thoáng

5/ Nhịp điệu: Uyển chuyển, sinh động

6/ Dòng tứ thơ + dòng âm điệu cho dòng cảm xúc bám theo

7/ Độ dài: 531 chữ

8/ Cảm xúc tầng 1 (đến từ câu chữ, biện pháp tu từ): Manh

9/ Cảm xúc tầng 2 (đến từ bố cục, thế trận): Mạnh

10/ Hồn thơ: Tùy bạn đọc

 


NHẬN XÉT


Đọc Ta Về, tôi tưởng tượng Tô Thùy Yên

như một người khổng lồ đeo trên lưng

một bọc lớn đựng đầy cảm xúc. Đáy bọc

có một cái vòi, có valve để có thể

đóng mở theo ý muốn. Thế rồi thi sĩ

của chúng ta tay cầm xẻng đào hố,tay

cầm vòi, mỗi hố lại mở valve xịt vào

một ít cảm xúc. Được 31 hố thì buông

xẻng ngửa mặt lên trời than rằng:

 

“Ôi! Bọc cảm xúc còn nhiều quá mà ta

không còn đủ sức đào hố nữa rồi.”

 

(“Ta tiếc đời ta sao hữu hạn

Đành không trải hết được lòng ta.”)

 

Đọc Ta Về của Tô Thùy Yên người đọc sẽ

lững thững đi tới từng chiếc hố – cả

31 hố, hố nào cũng đẹp – để thưởng

thức đường nét tinh xảo của từng nhát

xẻng, màu sắc đẹp đẽ, sang trọng pha

lẫn chút kiêu sa của cái khối cảm xúc

ở trong hố, để thấy khối cảm xúc đó

sóng sánh như muốn trào lên miệng hố.

 

Tô Thùy Yên, qua Ta Về, đã chú trọng

rất nhiều đến các đoạn thơ. Tâm huyết

của ông đổ vào cho việc tuyển chọn

ngôn từ, tạo dựng hình ảnh. Ông cho

rằng: “…một bài thơ dài thành công,

tức không bị sa lầy vào sự phân giải

lắm lời, phải là một bài thơ mà mỗi

đoạn ngắn của nó, nếu như được tách

riêng ra, đã có đầy đủ cường độ của

một bài thơ hoàn chỉnh.” (Vài Suy

Nghĩ Về Thơ Vần, dactrung.net).

 

Mỗi đoạn của Ta Về – đúng vậy – nếu

tách riêng ra “đã có đầy đủ cường độ

của một bài thơ hoàn chỉnh.” Không

những hoàn chỉnh mà còn rất hay,

không một chút tì vết. Nhưng gộp 31

đoạn thơ lại ta chỉ có 31 hố thơ, 31

vũng thơ chứ không có một dòng thơ,

như một dòng suối, dòng sông, biểu

lộ dòng cảm xúc của tác giả.

 

 

 

Về mặt hình thức, bài thơ Nhân Câu

Chuyện Mấy Người Tự Tử gồm 127 câu

(theo cách đếm câu của người viết bài

này)- không kể đoạn viết thêm 52 câu

– viết theo lối thơ mới biến thể. Số

chữ trong câu nhiều, ít tùy hứng. Vần

gieo liên tiếp, nhưng những lúc cần

tác giả sẵn sàng bỏ vần để khơi rộng

dòng chảy của cảm xúc.

 

Thêm vào đó, những câu chuyển ý,

chuyển đoạn  thường thoát vận nên bài

thơ tuy dài, đọc giả dường như không

cảm thấy dấu hiệu của hội chứng nhàm

chán vần. Vào năm 1956 có được hình

thức bài thơ như thế đã là rất mới.

 

Có thể nói giá trị nghệ thuật của bài

thơ chỉ gồm trong hai chữ: Cảm xúc.

Bài thơ (thực sự) lấy cảm xúc làm chủ

đạo. Mặc dù Lê Đạt đã có thể sử dụng

ngôn ngữ đời thường để diễn đạt những

ý niệm trừu tượng, phức tạp một cách

tài tình, nhưng tựu trung, ngôn từ,

câu cú trong bài thơ chỉ là những

công cụ để khơi dòng, để cho cảm xúc

đầy ắp trong lòng tác giả chảy đến

trái tim độc giả.

 

Khác với Tô Thùy Yên, Lê Đạt không đào

hố. Thay vào đó, ông đào một con kênh

dài rồi đổ ào cả cái bọc cảm xúc

xuống. (Thật ra, bởi ông chọn thể thơ

nhất khí liền mạch nên con kênh đã có

sẵn trong đầu. Khi câu chữ rơi xuống

trang thơ chúng tự đông "chảy vào dòng

kênh). Cảm xúc cứ nối tiếp nhau,

"sóng sau dồn sóng trước" chảy thành

dòng cuồn cuộn. Và khi đến cuối kênh,

dòng cảm xúc đã hợp đủ sức mạnh để

đẩy tung cánh cửa trái tim của độc

giả.




    YÊU THƠ NÊN PHẢI HẾT LÒNG VỚI THƠ

 

 

Đọc xong Một Chút Tâm Tình khá đông bạn bè và người đọc đã gởi đến tôi những lời bình phẩm. Đồng tình cũng nhiều mà chỉ trích cũng không ít.

Một vị (lớn tuổi, có uy tín) đã trách tôi “không còn cái tinh thần của người lính, nghe hiệu lệnh là cùng đồng đội xung phong chiếm lĩnh mục tiêu.”

Một người khác cho rằng bài thơ của tôi đã “lạc giọng, lỗi nhịp với dàn đồng ca của người Việt hải ngoại.”

Biết trả lời sao bây giờ? Bèn viết bài thơ.

 

 

Có một thời bị đọa đày hành hạ

thơ của tôi rực lửa căm thù

máu và nước mắt

ướt đẫm những trang thơ

nực mùi tử khí

 

Thơ cũng đậm màu chính trị

"màu này thật dễ thương

còn màu đó… thấy mà ghê!"

 

"Ôi đẹp quá phe mình!

còn phe bên kia

phải chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu"

mỗi câu thơ một bài ca chiến đấu

một viên đạn đồng đen

bắn vào chế độ cộng sản bạo tàn

tôi trở thành người lính hiên ngang

cầm bút


Thế rồi cuộc đời, thời thế đổi thay

suy nghĩ cũng có phần khác những ngày xa xưa 

 

Nhưng năm sau này 

đôi lúc 

nhìn cảnh đời dạt dào cảm xúc

bật ra mấy vần thơ

bạn bè nghe qua đầu lắc, tay xua

“Không hợp với trào lưu của người Việt hải ngoại”

 

Thỉnh thoảng xem lại thơ mình

thơ bạn bè đồng đội

nhiều bài rất lý tưởng 

vững lập trường

có kỷ cương

kẻ trước dẫn dắt người sau

riêng hồn thơ thì chẳng thấy đâu

 

Tôi lao vào đọc

mới đầu là những bài thơ tuyệt tác

tìm hiểu thêm kỹ thuật thơ ca

và rồi hầu như tất cả những gì về thơ

từ Âu Á Tây Tầu Anh Mỹ

các trang web văn chương

Talawas, Da Màu, Tiền Vệ

ôn cố tri tân

mong tạo cho thơ mình một vóc dáng riêng

nhưng người lính trong tôi quá đỗi kiên cường

nên tôi vẫn “được” xếp đứng chung hàng

với rất đông "nhà thơ – chiến sĩ"

 

Một hôm cao hứng

tình quê hương đất nước dâng tràn

nghĩ đến những thôn xóm, phố phường

có tên gọi Việt Nam

đến mẹ già, đàn em

bà con, bạn bè thân thiết

đến cả những người chưa quen biết

và những người đã chết từ lâu

 

Niềm thương cảm

từ trong từng thớ thịt, mỗi tế bào

chảy ào trên trang giấy

 

Nhưng chính ngay giây phút ấy

gió bão nổi lên

cát bụi mịt mù

và trong cái không khí rờn rợn âm u

xuất hiện một chàng trai trẻ tuổi

quân phục bạc màu, mặt buồn rười rượi

lấy cả thân người

che khuất bài thơ đang viết dở của tôi

 

Khi con chữ vẫn cứ hàng hàng lớp lớp

bay về tới tấp

như sóng biển dồn dập

khiến tôi trong cơn say, cơn điên

vung bút đâm phập vào trái tim

người lính

 

Tôi đang sống trên nước Mỹ

đất nước tự do

làm thơ

không phải nhìn trước, ngó sau

nỗi lo sợ theo vào

cả trong giấc ngủ

giật thót mình nghe tiếng chó sủa

ban đêm

 

Nhưng sao trước mặt vẫn chập chờn

những bóng ma quá khứ

ánh mắt van lơn, bàn tay níu giữ

khiến đã biết bao lần

dòng thơ đang băng băng tuôn chảy

phải khựng lại

luồn lách qua hướng khác

 

 

Để có thể hết lòng hết dạ

trọn tình trọn nghĩa

với nàng thơ

tôi tay cầm bút viết, tay nắm dao quơ

đuổi, giết bằng sạch những hồn ma, bóng quỷ

(truyền thống, khuôn phép lễ giáo, thước đo giá trị

của người đời)

 

Trên trang thơ của mình

tôi chỉ trung thành 

với nhịp đập của chính trái tim tôi.


Vâng! Trên trang thơ của mình

tôi chỉ trung thành 

với nhịp đập của chính trái tim tôi.

 

San Leon cuối tháng 1 năm 2013

 

 

 

MINH HỌA KỸ THUẬT GIEO VẦN

 

 

 

 YÊU THƠ NÊN PHẢI HẾT LÒNG VỚI THƠ

 

 

 

Có một thời bị đọa đày hành hạ

thơ của tôi rực lửa căm thù

máu và nước mắt ướt đẫm những trang thơ

nực mùi tử khí

 

Thơ cũng đậm màu chính trị

màu này thật dễ thương

còn màu đó… thấy mà ghê!

 

Ôi! Đẹp quá phe mình,  còn phe bên kia

phải chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu

mỗi câu thơ một bài ca chiến đấu

một viên đạn đồng đen

bắn vào chế độ cộng sản bạo tàn

tôi trở thành người lính hiên ngang cầm bút


Thế rồi cuộc đời, thời thế đổi thay

suy nghĩ cũng có phần khác những ngày xa xưa

 

Những năm sau này

đôi lúc 

nhìn cảnh đời dạt dào cảm xúc

bật ra mấy vần thơ

bạn bè nghe qua đầu lắc, tay xua

“Không hợp với trào lưu của người Việt hải ngoại

 

Thỉnh thoảng xem lại thơ mình 

thơ bạn bè đồng đội

nhiều bài rất lý tưởng 

vững lập trường

có kỷ cương

kẻ trước dẫn dắt người sau

riêng hồn thơ thì chẳng thấy đâu

 

Tôi lao vào đọc

mới đầu là những bài thơ tuyệt tác

tìm hiểu thêm kỹ thuật thi ca

và rồi hầu như tất cả những gì về thơ

từ Âu Á Tây Tầu Anh Mỹ

các trang web văn chương Talawas, Da Màu,

Tiền Vệ

ôn cố tri tân

mong tạo cho thơ mình một vóc dáng riêng

nhưng người lính trong tôi quá đỗi kiên cường

nên tôi vẫn “được” đứng chung hàng

với rất đông "nhà thơ – chiến sĩ"

 

Một hôm cao hứng

tình quê hương đất nước dâng tràn

nghĩ đến những thôn xóm, phố phường

có tên gọi Việt Nam

đến mẹ già, đàn em, bà con, bạn bè thân thiết

đến cả những người chưa quen biết 

và những người đã chết từ lâu

niềm thương cảm từ trong từng thớ thịt

mỗi tế bào

chảy ào trên trang giấy

 

Nhưng chính ngay giây phút ấy

gió bão nổi lên, cát bụi mịt 

và trong cái không khí rờn rợn âm u

xuất hiện một chàng trai trẻ tuổi

quân phục bạc màu, mặt buồn rười rượi

lấy cả thân người

che khuất bài thơ đang viết dở của tôi

 

Khi con chữ vẫn cứ hàng hàng lớp lớp

bay về tới tấp

như sóng biển dồn dập

khiến tôi trong cơn say, cơn điên

vung bút đâm phập vào trái tim

người lính

 

 

Tôi đang sống trên nước Mỹ

đất nước tự do

làm thơ

không phải lấm lét nhìn trước, ngó sau

nỗi lo sợ theo vào

cả trong giấc ngủ

giật thót mình nghe tiếng chó sủa ban đêm

 

Nhưng sao trước mặt vẫn chập chờn

những bóng ma quá khứ

ánh mắt van lơn, bàn tay níu giữ

khiến đã biết bao lần

dòng thơ đang băng băng tuôn chảy

phải khựng lại

luồn lách qua hướng khác

 

…………

 

Để có thể hết lòng hết dạ

trọn tình trọn nghĩa

với nàng thơ

tôi tay cầm bút viết, tay nắm dao quơ

đuổi, giết bằng sạch những hồn ma, bóng quỷ

(truyền thống, khuôn phép lễ giáo, thước đo giá trị

của người đời)

 

Trên trang thơ của mình

tôi chỉ trung thành

với nhịp đập của chính trái tim tôi.

 

  

 KỸ THUẬT THƠ:

 

1/ Thơ Mới Biến Thể, nhất khí liền mạch/ Tứ thơ chảy thành dòng.

2/ Vần: Vần chân là chính, chỗ đậm chỗ nhạt, không có quy củ.

3/ Số chữ trong câu: Thay đổi với biên độ rộng

4/ Dòng âm điệu: Thông thoáng

5/ Nhịp điệu: Uyển chuyển, sinh động

6/ Dòng tứ thơ + dòng âm điệu cho dòng cảm xúc bám theo

7/ Độ dài: 531 chữ

8/ Cảm xúc tầng 1 (đến từ câu chữ, biện pháp tu từ): Manh

9/ Cảm xúc tầng 2 (đến từ bố cục, thế trận): Mạnh

10/ Hồn thơ: Tùy bạn đọc


Diễn Đọc Thơ:

Bài thơ được đọc nhiều nơi, khung cảnh nào cũng được. Dĩ nhiên những người "lập trường kiên định" cười nhạt, lắc đầu. Nhưng đại đa số đồng tình, hưởng ứng, vỗ tay vang dội

   HOA DẠI

(Tâm sự một nhà thơ)

 

Tôi là loài hoa dại

mọc bên đường

tỏa sắc hương

dịu lòng những ông bố trên đường đến xưởng

những bà mẹ đi thăm ruộng trở về

 

Tôi thêm nét vui tươi

cho cô gái quê

xách làn đi chợ

 

Các cô cậu học trò

mặt mày hớn hở

cười với tôi mỗi buổi đến trường

 

Tôi đứng đây

mở lòng đón gió bốn phương

để thêm sắc thêm hương

cho người đời thêm đẹp dạ

 

Bạn đừng tưởng đời tôi êm ả

như mặt nước hồ

tôi đã bao phen nghiêng ngả

trước những trận gió to

 

Có lúc thân tôi xác xơ

tả tơi từng cánh

lá rụng phấn bay lịm dần trong đêm lạnh

nhưng nghĩ đến ngày mai

tôi gượng dậy mỉm cười

 

Tuy nhiên

nếu lúc này bạn ngỏ ý mời tôi

đến một ngôi nhà sang trọng

dành cho tôi chỗ ngồi ấm cúng

có kẻ chăm lo trẩy lá tỉa cành

tôi vẫn lắc đầu nhìn dưới chân mình

mảnh đất nhỏ tôi vô cùng yêu mến

 

Tôi sống

không phải để riêng ai âu yếm

sắc hương này tôi muốn sẻ chia

cho tất cả mọi người

từ em bé ngây thơ

đến các cụ già trăm tuổi

 

Và nếu nơi đây nước dâng bão nổi

tấm thân này tan nát cuốn muôn nơi

tôi vẫn vui

bởi phấn nhụy của tôi

sẽ mọc lên trăm ngàn cây hoa mới

(239 chữ)


(Phạm Đức Nhì)

 

 

Thơ tôi viết có một phần khá lớn sử dụng phép ẩn dụ trong đó có gần hai chục bài bàn về Lý Thuyết Thơ được bạn bè xếp vào loại “Những Bài Thơ Về Thơ”. Hoa Dại là bài thơ thuộc loại này.

 

Tứ: Tác giả nói lên tâm sự của một loài hoa dại.

Ý: Bóng gió nói đến tâm sự của chính tác giả - một nhà thơ

 

 

Giải Thích Thêm Về “Tứ Thơ”

 

 

Khi nghe nói hoa dại người đọc sẽ có thể nghĩ đến một loại hoa khác với loại “hoa nhà” được con người trồng, như một cách trang trí, ở trong nhà hay ngoài vườn.

 

Nếu đem so sánh sẽ có một số khác biệt như sau:

 

1/ Môi Trường

 

 

     a/ Hoa Dại: Mọc ở môi trường tự nhiên, ven đường, ven rừng, chịu đựng nắng mưa, sương gió, có khi cả bão lụt - bất trắc xảy đến bất cứ lúc nào.

 

 

     b/ Hoa Nhà: Được con người trồng trong vườn hoặc ở trong nhà, được lên luống, chăm bón, tưới tắm, bắt sâu, tỉa lá, bẻ cành, trong một môi trường được kiểm soát, “nuông chiều” và dĩ nhiên, an toàn.

 

 

2/ Tự Do

 

     a/ Hoa Dại: Gió thổi hạt đến đâu có thể mọc cây ở đó, cảnh quan trước mắt rộng rãi, thoáng đãng, tầm nhìn bao la.

 

 

     b/ Hoa Nhà: Chỉ được trồng hoặc trưng bày ở nơi người chủ nhà muốn, bị tù túng trong khung cảnh chật hẹp.

 

3/ Đối Tượng Phục Vụ:

 

 

     a/ Hoa Dại: Phục vụ tất cả những người qua lại

 

 

     b/ Hoa Nhà: Phục vụ những người trong gia đình chủ nhà và khách khứa, bạn bè của họ

 

Từ Tứ Suy Ra Ý - Nghĩa Bóng

 

Sau đây là nghĩa bóng (ý) của bài thơ, liên quan đến nhân cách của thi sĩ. Bài thơ muốn nói đến hai loại thi sĩ: Thi Sĩ Hoa Dại và Thi Sĩ Hoa Nhà.

 

1/ Môi Trường

 

     a/ Thi Sĩ Hoa Dại: Không chức vụ (trong chính quyền), không đặc quyền đặc lợi, không được che chắn, bảo vệ. Thơ là tiếng lòng chân thật nên dễ đụng chạm, sóng gió có thể ập đến bất cứ lúc nào – nghĩa là Thi Sĩ Hoa Dại phải có cái tính “ngông”, coi thơ trọng hơn một cuộc sống no ấm, an bình.

 

     b/ Thi Sĩ Hoa Nhà: Bám vào hoặc dựa dẫm quyền hành để được chữ “an thân”, được quyền lợi vật chất cho mình và gia đình, thường được gọi là “nhà thơ cung đình” (của chế độ), coi sự chân thật trong thơ, hồn thơ nhẹ hơn danh lợi.

 

2/ Tự Do

 

     a/ Thi Sĩ Hoa Dại: Viết tự do, thoải mái, không chịu áp lực, kiểm soát từ người có chức, quyền, tiền bạc, tứ thơ hướng đến một khung trời rộng hơn, một chân trời xa hơn, giọng điệu cao sang hơn.

 

     b/ Thi Sĩ Hoa Nhà: Viết theo “đơn đặt hàng” (trực tiếp hoặc gián tiếp) của những người có quyền chức cao, bạc tiền nhiều nên đề tài bó buộc, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, viết không vừa lòng chủ thì sẽ “mất” hết, tứ thơ chật hẹp, giọng điệu ít nhiều có tính nịnh bợ, hèn kém.

 

3/ Đối Tượng Phục Vụ:

 

     a/ Thi Sĩ Hoa Dại: Phục vụ tất cả mọi người, toàn thể nhân loại, nhờ thế nhân cách cao đẹp.

 

     b/ Thi Sĩ Hoa Nhà: Phục vụ một thiểu số có chức quyền, tiền bạc nên nhân cách hèn kém.

 

Những tính xấu như tham quyền, tham danh lợi, thích được an nhàn không những làm tâm hồn của thi sĩ mờ đục mà ngay chính thơ của Ngài cũng thiếu trong sáng, tươi mát. Thi sĩ kiểu ấy xã hội nào cũng có và thường chiếm số khá đông.

  

Kết Luận

 

Cho nên khi làm thơ, nếu mang cái tâm thế của loài Hoa Dại sẽ được Nàng Thơ chào đón niềm nở và thân tình hơn.

 

 

WILD FLOWER

 

(Intimate feelings of a poet)

 

I am a wild flower

growing along the roadside

spreading color and flagrance

to ease off the fathers

on the way to their workshops

the mothers

on their way back

visiting the rice fields

 

I add the joyful feature

to the young village girl

shopping bag on hand

going to the market

 

The young students with their happy look

laughing with me on their way to school

 

 

I stand here with open arms

to welcome the breeze from everywhere

to add more colors

more flagrance

to make human life more beautiful

 

Don’t think my life is calm

like the surface of the lake

I have been through many ups and downs

in front of strong winds

 

Sometimes my body is tattered

tousled to each petal

the leaves falling

the pollen flying in the air

swooning in the cold night

but thinking of the coming tomorrow

I stand up smiling

 

However, right now

if you hint to invite me

to come to a luxurious house

reserve a cozy place for me

with somebody to take good care of me

 

I still shake my head

looking under my feet

the small piece of land

I love so much

 

I live not for anyone in particular to cherish me

this marvelous beauty

I want to share

with everybody

from innocent children

to hundred-year-old people

 

And if at this place

flood and storm

this body destroyed and dispersed everywhere

I am still glad

because with my pollen

will grow

thousands of new flower plants.

 

Thư Của Nhà Thơ Lão Thành Cao Mỵ Nhân 

 

Thân gởi Nhà Thơ PHẠM ĐỨC NHÌ quý mến, 

 

Cám ơn người Thi Sĩ rất hào sảng trong cách nghĩ, mà lại rất cô đơn trên quan niệm thơ ca. 

 

Bài thơ HOA DẠI của PHẠM ĐỨC NHÌ với tôi, phải nói là một kiệt tác. Tôi cứ loay hoay muốn nói cái điều gì đó rằng: 

 

Chúng ta, quý vị và tôi, những người làm thơ, đọc thơ, yêu thơ, thích thơ và cả ghét thơ đi nữa, vẫn phải vỗ tay vào, xin hãy vỗ tay vào, vỗ tay thật lớn, không phải vì hay, mà vì thốt ra được, nói lên được tính chất nhân bản, lãng mạn của một loài hoa dại trải dài trên vạt đất nhân sinh vô cùng phong phú. 

 

Trước hết, xin CÁM ƠN THI SĨ PHẠM ĐỨC NHÌ, sau xin hứa với chính tôi, là phải làm sao thả rộng "mục đích, yêu cầu" của loài HOA DẠI mà PHẠM ĐỨC NHÌ nhận biết hoa ấy rất cần thiết cho Cuộc Đời bất cứ ai muốn, hiểu tính cách làm THI SĨ.

 

Thành thực cám ơn Nhà Thơ. Thân quý chúc Thi Sĩ PHẠM ĐỨC NHÌ luôn như ý trong sáng tác và hoàn tất điều suy nghĩ về Thơ của tất cả cùng riêng ông. 

 

KÍNH CHÚC VẠN AN.    

CAO MỴ NHÂN



Minh Họa Kỹ Thuật Gieo Vần



HOA DẠI



Tôi là loài hoa dại

mọc bên đường

tỏa sắc hương

dịu lòng những ông bố trên đường đến xưởng

những bà mẹ đi thăm ruộng trở về

 

Tôi thêm nét vui tươi cho cô gái quê

xách làn đi chợ

 

Các cô cậu học trò mặt mày hớn hở

cười với tôi mỗi buổi đến trường

 

Tôi đứng đây mở lòng đón gió bốn phương

để thêm sắc thêm hương

cho người đời thêm đẹp dạ

 

Bạn đừng tưởng đời tôi êm ả

như mặt nước hồ

tôi đã bao phen nghiêng ngả

trước những trận gió to

 

Có lúc thân tôi xác 

tả tơi từng cánh

lá rụng phấn bay lịm dần trong đêm lạnh

nhưng nghĩ đến ngày mai

tôi gượng dậy mỉm cười

 

Tuy nhiên

nếu lúc này bạn ngỏ ý mời tôi

đến một ngôi nhà sang trọng

dành cho tôi chỗ ngồi ấm cúng

có kẻ chăm lo trẩy lá tỉa cành

tôi vẫn lắc đầu nhìn dưới chân mình

mảnh đất nhỏ tôi vô cùng yêu mến

 

Tôi sống

không phải để riêng ai âu yếm

sắc hương này tôi muốn sẻ chia

cho tất cả mọi người

từ em bé ngây thơ

đến các cụ già trăm tuổi

 

Và nếu nơi đây nước dâng bão nổi

tấm thân này tan nát cuốn muôn nơi

tôi vẫn vui

bởi phấn nhụy của tôi

sẽ mọc lên trăm ngàn cây hoa mới



KỸ THUẬT THƠ:

1/ Thơ Mới Biến Thể, nhất khí liền mạch/ Tứ thơ chảy thành dòng.

2/ Vần: Vần chân là chính, cũng có chen vào vần gián cách, vần lưng, ngọt đậm nhưng không đến mức "nhàm chán vần"

3/ Số chữ trong câu: Thay đổi với biên độ rất rộng

4/ Dòng âm điệu: Thông thoáng/ tốc độ khá nhanh

5/ Nhịp điệu: Uyển chuyển, sinh động

6/ Dòng tứ thơ + dòng âm điệu phát sinh dòng cảm xúc, 3 dòng nhập một

7/ Độ dài: 239 chữ 

8/ Hồn thơ khá mạnh.


Trong thời gian ở bệnh xá Phân Trại B với tình trạng bệnh tật nặng nề: Liệt 2 chân, rối loạn cơ tròn, không kiểm soát được việc iả đái. Nghe tiếng tôi làm thơ, biết nhạc lý, những dịp lễ tết có người làm công tác văn nghệ trong trại bóng gió gợi ý: "Lúc này nếu viết được bài thơ hoặc bản nhạc ca ngợi chế độ sẽ rất có lợi, cơ hội 'sống sót trở về' sẽ rất cao".

Tôi chỉ cười cho qua chuyện nhưng sau đó đã nổi hứng viết bài thơ Hoa Dại.


Diễn Đọc "Hoa Dại"

Hoa Dại có Ẩn Dụ toàn bài, cần khả năng liên tưởng và chút nhạy cảm để "bắt" được Tứ và hiểu được Ý nên ít được phổ biến trong trại. Lý do: Trình độ các em tù hình sự "chưa tới".

Nhưng ra đời thì nó dễ được chấp nhận, bất kể lập trường, quan điểm chính trị, miễn là có không khí trầm lặng, ấm cúng, gần gũi. Dân chơi thơ càng nhuyễn thì càng khoái. Bài thơ 239 chữ (không dài lắm) nhưng hồn thơ khá mạnh, khán giả thả tâm hồn theo dòng chảy của câu chữ từ đầu đến cuối. 

Đọc bài thơ này rất hứng. Có một số lần được yêu cầu đọc lại.

Tuy nhiên, đem Hoa Dại vào khung cảnh tiệc tùng vui nhộn, mừng sinh nhật, đám cưới... thì "trât lất".


Tự do

1/ What: Phải đạo/ ngược dòng

2/ Kỹ thuật


Cái nền kỹ thuật

1/ Tạm đủ xài

2/ Muốn đi xa hơn

Comments

Popular posts from this blog

"EM CÒN TRẺ VÀ EM KHÔNG THỂ BIẾT" CỦA NGUYỄN ĐỨC TÙNG CÓ PHẢI LÀ THƠ?

NHÌN TỪ XA ... TỔ QUỐC - NỖI ĐAU QUẶN THẮT CỦA MỘT NGƯỜI VIỆT YÊU NƯỚC

MỘT PHÁT BIỂU VỀ THƠ KIỂU “ĐIẾC KHÔNG SỢ SÚNG”