HƯỚNG ĐI MỚI CỦA THƠ
Phần1: Nhận Diện Thơ
Gồm 4 bài:
1/ Góp Ý Với Cuộc Đối Thoại "Thế Nào Thì Gọi Là Thơ
2/ Thơ Con Cóc Có Phải Là Thơ?
3/ Về "Bài Thơ" Đồng Dao Cho Người Lớn
4/ Trao Đổi Với Bác Vũ Nho
Bài 1
(Nhận Diện Thơ)
GÓP Ý VỚI CUỘC ĐỐI THOẠI "THẾ NÀO THÌ GỌI LÀ THƠ?"
1/ Nó hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, đến từ bề mặt của ý thức; tâm của tác giả chưa có cơ hội đối diện với, hoặc bước vào, khung cảnh của bài thơ.
1/
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
Không làm các việc ác
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Thân như bóng chớp có rồi không
Trâm vàng để trả thày bói (hỏi ngày chồng về).
Sáng nào cũng ra cửa sông trông ngóng,
Mà chỉ thấy nhầm toàn thuyền của người ta.
Bán tự ngân câu bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không
Nửa dường móc bạc nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không
Để nhờ không khí đẩy lên trăng
Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi
Để hớp tinh anh của nguyệt cầu
Và để thoát ly ngoài thế giới
Để cười, để trững, để yêu nhau.
Con ếch tung mình xuống
Và vang tiếng nước xao
(Bashô)
THƠ CON CÓC CÓ PHẢI LÀ THƠ?
Bài thơ Đồng Dao Cho Người Lớn của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, theo em thấy nó "khô" quá. Vậy có phải là thơ không anh?
BÀI 4
(Nhận Diện Thơ)
TRAO ĐỔI VỀ "BÀI THƠ" ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN
Tôi đã đọc bình luận của bác dưới bài viết và thấy rằng nhìn nhận và đánh giá của bác và tôi về bài ĐDCNL của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, quả thật, có khác nhau. Xin phép được làm rõ vài điểm trong bình luận của bác.
1/ Xét về mặt hình thức, ĐDCNL có phải là Vè không?
Theo Đỗ Trọng Khơi, “Đồng Dao của Nguyễn Trọng Tạo viết ở nhịp 8 chữ nhưng soi chẻ rạch ròi vẫn thấy cái dư khí của hồn bốn chữ dân gian”. Tôi đồng ý với anh ở điểm này. Cho nên ĐDCNL – đúng như cái tựa của nó – là một bài đồng dao (biến thể). Mà đồng dao, theo đoạn trích trong Wikipedia Tiếng Việt ở trong bài viết của tôi, là một loại vè. Chính vì thế, theo tôi, khi chọn cái tựa ấy, về mặt hình thức, tác giả đã vô tình tự xếp loại nó là vè.
Tuy nhiên, để khỏi lầm trường hợp mà theo bác, “Nguyễn Trọng Tạo chỉ ‘mượn’ hình thức đồng dao thôi” nên tôi phải nhìn vào nội dung. Nếu nó có cảm xúc từ cái tôi riêng tư của tác giả thì đúng là một bài thơ mượn hình thức đồng dao. Nếu nó tuyệt nhiên không có một tý ty cảm xúc của “cái tôi riêng tư” thì trong trường hợp này, vì đã có hình thức đồng dao, nó sẽ là bài Vè. Tôi sẽ bàn về điểm này ở phần số 4.
2/ Cũng không thể nói rằng VÈ thì kém THƠ. Vè là một thể loại văn học dân gian. Một bài VÈ Hay thì quý gấp nhiều lần một bài THƠ Dở. Đó là điều không thể phản bác.
Tôi đã gặp một y tá già, giầu kinh nghiệm lại mát tay nên chạy rong chữa bệnh cho bà con trong thôn xóm được nhiều người thích. Có người phát biểu: “Y tá mà như ông M. thì còn hơn mấy anh bác sĩ mới ra trường”. Nói thì nói thế chứ đi vào thực tế thì y tá và bác sĩ ở hai đẳng cấp khác nhau, cao thấp cách nhau một trời một vực.
Vè với Thơ cũng thế. Vè là Vè, Thơ là Thơ. Hai loại ở hai đẳng cấp riêng biệt, cao thấp khác nhau. Tôi có thằng bạn nói đùa về thơ một thằng bạn khác “Thơ của mày cứ như Vè ấy”. Thằng làm thơ coi đó là điều sỉ nhục, và hai đứa giận nhau rất lâu. Hồi mới bập bẹ làm thơ, thầy giáo môn Việt Văn của tôi thường nhắc “Khéo đấy! Coi chừng thơ thành vè thì tổ làm trò cười cho thiên hạ.”
Vì thế tôi cho rằng y tá có kinh nghiệm cách mấy cũng cũng không thể vỗ ngực coi mình ngang hàng với bác sĩ; và Vè rõ ràng không thể cùng đẳng cấp với Thơ.
3/ Bác Vũ Nho viết: “Những bài đồng dao, hay vè, yếu tố cá nhân, cái tôi của tác giả hầu như khá mờ nhạt”.
Theo tôi, nếu đúng là đồng dao thì cái tôi riêng tư của tác giả không phải là “hầu như khá mờ nhạt” mà hoàn toàn vắng bóng. Bởi chỉ cần một tý tẹo teo cái tôi riêng tư thì nó đã không còn là vè nữa mà được nâng cấp thành thơ.
Trong câu thơ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo:
“Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi”
chữ “tôi” nằm sờ sờ ra đó nên rất dễ hiểu lầm là “cái tôi” của tác giả đã có mặt trong câu thơ.
Có hai điểm cần lưu ý trong “câu thơ” này:
a/ Cụm từ “Có cánh rừng chết” nói chung chung, không cụ thể, không nói rõ “cánh đồng chết” nào nên chỉ là một hình tượng đã lôi ra từ trong ký ức, là sản phẩm của lý trí chứ không phải cảnh thơ. Nếu có một đoạn trước đó nói về “cánh rừng chết” và ở đây dùng cụm từ “Cánh rừng chết ấy” thì chúng ta đã có cảnh thơ. Thí dụ như đoạn thơ dưới đây:
Cánh rừng sát bên Xóm Đạo
sau những đợt mưa bom, mưa pháo
đã thành cánh rừng chết
với người đời
nhưng trong tôi
vẫn tươi mát một màu xanh.
“Cánh rừng chết” đã là cảnh thơ nên 2 câu thơ cuối:
"nhưng trong tôi
vẫn tươi mát một màu xanh"
đã là tâm tình của cái tôi riêng tư (tác giả), ít nhiều đã có cảm xúc và đã xứng đáng được gọi là thơ. (Hay dở chưa bàn đến).
b/ Sự xuất hiện của chữ “Có” đã khiến chữ “tôi” trở thành nhân vật trong “câu kể” của tác giả chứ không phải chính tác giả - người đang sáng tác thơ. Thi sĩ Nguyễn Trọng Tạo ở đây phải đóng 2 vai. Một, là nhân vật “tôi” trong “câu kể”, đã xuất hiện trong quá khứ và đã trốn trong ký ức, giờ bị lôi ra trình làng. Hai, là người bằng xương bằng thịt đang ngồi cầm bút làm thơ.
Kết quả là câu “Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi” chỉ là hình tượng được lội ra từ ký ức, không có cái tôi riêng tư của tác giả dự phần nên không có cảm xúc và không phải là thơ.
Bài ĐDCNL chỉ có câu đầu dễ hiểu lầm là thơ, còn lại những câu khác đều là những “câu kể” phát xuất từ bề mặt ý thức, rất dễ nhận ra. Sau khi đã chấp nhận phần giải thích lý do tại sao câu đầu không phải là thơ, độc giả có thể tự kết luận cả bài không phải là thơ. ĐDCNL có hình thức là đồng dao - một loại Vè – nên nó là một bài Vè.
5/ Riêng câu nhận xét của chị KIm Phương rằng bài đó "khô" cho nên hoài nghi không biết có phải thơ không thì...thật là phiến diện. Có thơ trữ tình, có thơ trí tuệ, có thơ văn xuôi...sao cứ phải "ướt" hay "không khô" mới là THƠ?
Theo tôi hiểu, chị Kim Phượng nói “khô” với nghĩa không có tý cảm xúc riêng tư nào của tác giả. Thơ trữ tình thì không nói làm gì, còn thơ trí tuệ, thơ văn xuôi hay thơ … gì gì nữa cũng phải có cảm xúc riêng tư của tác giả thì mới gọi là thơ. Chứ “khô queo” thì nếu không là vè thì cũng là thứ dị chủng, khác loại với thơ.
ĐÀN BÀ
Có hai loại đàn bà
loại chính chuyên chung thủy với chồng
Loại không lấy chồng
suốt đời đến với đàn ông
chỉ để thỏa mãn nhu cầu xác thịt
tìm vui trong chốc lát.
Sáu câu trên chỉ là cách nhìn của tác giả về đàn bà, đến từ bề mặt ý thức, chưa phải là thơ. Nhưng chỉ cần thêm câu sau đây:
Tôi thích loại đàn bà thứ hai
thì đã có cảm xúc, tình đã xuất hiện, cả bài đã trở thành thơ. Câu “Tôi thích loại đàn bà thứ hai” là câu thơ sinh tình.
Bài ĐDCNL, tôi trộm nghĩ, do cấu trúc của đồng dao “không thành chương khúc” nên khó đưa vào một câu thơ sinh tình thích hợp.
Kết Luận
Với tôi, trang web Vũ Nho Ninh Bình của bác là một trang văn học đứng đắn. Tôi rất thích câu chào “Đây là quán tha hồ muôn khách đến!” Cám ơn bác đã cho tôi hân hạnh có một số bài được đăng ở đấy. Phần cuối của bình luận về bài viết bác đã nhắn “dù khác ý kiến với anh tôi vẫn tôn trọng đưa bài viết này”. Đó là thái độ người lớn, công tâm trong giao lưu văn học.
Với nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo, tôi một lòng kính trọng ở tài năng và uy tín của ông. Mặc dù chưa trực tiếp trò chuyện, tôi đã “gặp” ông nhiều lần trong những Ngày Thơ Nguyên Tiêu ở Văn Miếu Quốc Tử Giám. Nhận xét về tính thơ trong bài ĐDCNL của ông tôi đâu dám giỡn chơi. Tôi đã tra cứu, vận dụng kiến thức của mình về thơ ca và viết rất cẩn trọng.
Bình luận của bác đã cho tôi cơ hội nhìn lại bài viết của mình một cách kỹ càng hơn để trả lời những chất vấn của bác. Tôi tin ở những điều mình viết, nhưng với đề tài liên quan đến lý thuyết thơ, ai dám chắc là mình không sai sót? Ai dám chắc là mình được sự đồng thuận của mọi người? Tôi sẵn sàng đón nhận những phê bình, góp ý của bác và của những độc giả khác.
Một lần nữa, xin chân thành cảm ơn bác.
("Cô Em Sự Thật" được mượn từ bài thơ Tìm Trong Tuyệt Vọng của Vũ Khắc Tế)
Gồm 4 Bài 5, 6, 7, 8
5/ Thi Sĩ Có Xạo Không?
6/ Các Kiểu Xạo Của Thi Sĩ
7/ Kiểu Xạo Cuối Cùng: Xạo Vì Né Tránh
"Căn Phòng Bí Mật"
8/ Chủ Nghĩa Siêu Thực
Bài 5
(Đi Tìm "Cô Em Sự Thật")
THI SĨ CÓ XẠO KHÔNG?
Người Đời Thường Gian Dối
Tôi học Đệ Nhất ở Lý Thường Kiệt, một trường trung học công lập quận Hốc Môn, nhưng vì nghe tiếng giáo sư Trần Bích Lan nên thỉnh thoảng cũng “vù” lên trường Văn Học ở Sài Gòn học ké mấy giờ Triết. Phải công nhận thi sĩ Nguyên Sa giảng Triết nghe đã thiệt. Có lần, không nhớ trong bài nào, thầy phát biểu:
“Do tính sĩ diện nên người đời thường gian dối; mở miệng ra là vơ cái hay, cái tốt về mình; ngay cả khi tiết lộ một chút gì xấu của cái Tôi là cũng muốn chứng tỏ mình thành thật.”
Sau khi “mất” Khánh Ngọc, Phạm Đình Chương đã sáng tác nhạc phẩm Nửa Hồn Thương Đau trong đó có câu:
“Đôi khi anh muốn tin, đôi khi anh muốn tin những người, ôi những người khóc lẻ loi một mình”.
Ý nhạc sĩ muốn nói chỉ những người khóc lẻ loi một mình (như ông đang khóc Khánh Ngọc) mới đáng tin là có nỗi đau buồn chân thật.
“Bởi đàng sau những giọt nước mắt
giữa đám đông
rất có thể
ẩn hiện bóng hình
loài cá sấu.”
(Kẻ Giết Chết Hồn Thơ, Phạm Đức Nhì, vandanviet.com)
Nhưng nhiểu trường hợp người ta còn dàn cảnh để “con mồi” được tận mắt xem tấn tuồng “khóc lẻ loi một mình” rồi tin và hiên ngang bước vào bẫy. (1)
Phạm Đình Chương, khi viết Nửa Hồn Thương Đau, không ngờ rằng ngay cả tiếng khóc lúc lẻ loi cũng có thể sản sinh những giọt nước mắt cá sấu. Tính gian dối của người đời sâu đậm đến như thế đấy.
Thi Sĩ Có Xạo Không?
Trở lại buổi học Triết với thầy Trần Bích Lan. Lúc ấy, vốn có tiếng nghịch ngợm lại bạo mồm, tôi ngồi tại chỗ “hỏi chõ” lên:
“Thế thi sĩ có xạo không thầy?”
Thầy nhìn về hướng tôi ngồi, trả lời tỉnh bơ:
“Có chứ, sao lại không! Khác nhau là cố ý hoặc vô tình.”
Không ngờ mấy chục năm sau, vướng “đậm” vào cái nghiệp thi ca, tôi lại phải trả lời câu hỏi của chính mình. Không biết lúc ấy thầy Trần Bích Lan trả lời thật hay đùa; tôi cũng không có cơ hội để hỏi thầy đến nơi, đến chốn.
Nhưng đọc khá nhiều thơ, thỉnh thoảng lại chất vấn tâm hồn mình – cũng là người múa bút làm thơ – tôi thấy quả đúng như thầy nói, thi sĩ nhiều người, nhiều lúc cũng “xạo tới bến”.
Tại Sao Thi Sĩ Xạo?
Lý do cũng dễ hiểu. Người đời trong giao tiếp hàng ngày, đôi lúc ở chỗ này chỗ khác, nói năng có điều gì thất thố, có xúc phạm ai thì cũng chỉ một số ít người biết. Sau đó lời nói sẽ bay đi như gió thoảng.
Còn thi sĩ, bài thơ xuất xưởng là sẽ vượt khỏi sự kiểm soát của mình, nếu sai sót điều gì hoặc đụng chạm đến ai đó, hậu quả của những dòng thơ trên giấy trắng mực đen sẽ đọng lại rất lâu.
Cho nên đặt bút viết phải cẩn trọng. Cẩn trọng sẽ mời gọi lý trí. Có lý trí xuất hiện, thi sĩ - dù muốn dù không – cũng sẽ Xạo.
CHÚ THÍCH
1/ Trong Cô Gái Đồ Long của Kim Dung tên Trường Linh đã giả vờ khóc trước bàn thờ Tạ Tốn để lừa Trương Vô Kỵ, hy vọng được Vô Kỵ tin tưởng dẫn ra Băng Hỏa Đảo.
BÀI 6
1/ Xạo Vì Ham Danh Lợi, Sắc Dục
Đây là kiểu xạo theo đúng nghĩa đen của từ “xạo” – nói sai sự thật, xuyên tạc sự thật - nhằm mưu cầu danh lợi, thỏa mãn sắc dục. Thi sĩ nếu vướng vào kiểu xạo này không chỉ làm mất đẹp thanh danh của mình mà còn làm ô uế chữ Thơ (viết hoa) trong sạch, cao quý của nhân loại.
Phạm tội hình sự nhiều khi có thể “qua mặt” pháp luật chứ phạm tội cố ý xạo (vì danh lợi) trong thơ thì sớm muộn gì cũng bị vạch mặt, chỉ tên.
2/ Xạo Vì Sợ, Vì Hèn, Vì Teo Chim
Đây cũng là kiểu xạo theo đúng nghĩa đen của từ “xạo” – nói sai sự thật, xuyên tạc sự thật. Thi sĩ để “cái tôi teo chim” lấn át “cái tôi văn hóa” và “cái tôi đích thực”. Biến chứng của nó là thái độ “nâng bi” chế độ, lãnh tụ, cấp trên - những người có quyền quyết định sự an nguy, thăng tiến hoặc tụt hậu của mình và gia đình.
Giữa “cái tôi văn hóa” và “cái tôi teo chim” thì “cái tôi teo chim” mạnh hơn, có uy thế hơn nhiều. Nghĩ đến chết chóc, tù đày, gia đình bị tước đoạt mọi phương tiện, nguồn sống, ngòi bút của thi sĩ đôi lúc phải cong lại hoặc vừa viết lại vừa phải “lách”. Cái xấu phủ đến đen mặt thì lờ đi, cái tốt thì có ít xít ra nhiều, nếu không có thì bịa ra, “bốc thơm” đến tận trời xanh. Thí dụ cụ thể về kiểu xạo này không thiếu nhưng tôi không trích dẫn. Sợ bị trách nặng tay bên này, nhẹ tay bên kia.
Làm thơ mà xạo là không đẹp. Trước tiên, nó làm mất đẹp thanh danh của mình. Sau nữa còn làm ô uế chữ Thơ (viết hoa) trong sạch, cao quý của nhân loại. Tuy nhiên, xạo vì teo chim dù sao cũng có chỗ để châm chước, thông cảm. Sống trong hoàn cảnh bó buộc như thế đâu phải ai cũng có máu anh hùng.
3/ Xạo Vì Đứng Về Một Phía Của Một Vấn Đề Hai Mặt
Đây là kiểu xạo “xoay trở tứ thơ” để có góc nhìn thuận lợi cho phe mình, mục đích để giành chiến thắng trong một cuộc tranh luận. Chủ thể đối luận có thể trực tiếp tranh cãi nhưng cũng có thể vắng mặt để thi sĩ một mình một chợ dàn trải quan điểm của mình. Đây là kiểu xạo
còn phe bên kia
phải chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu.
Kiểu xạo này rất thường gặp, dính líu đến lập trường, quan điểm, được cả thi sĩ và độc giả chấp nhận. Dĩ nhiên, nó đỡ xấu hơn xạo vì danh lợi riêng tư.
4/ Xạo Vì Xê Dịch Kịch Bản Của Bài Thơ
Kịch Bản Thơ
Đã làm thơ, khi chữ nghĩa cùng với cảm xúc tuôn ra, chúng phải “chảy” về một hướng nào đó, bằng một “con kênh” nào đó. Con kênh có thể có trước, cũng có thể xuất hiện cùng thời điểm lúc chữ nghĩa và cảm xúc tuôn ra. (Trường hợp sau thì thơ dễ có hồn hơn).
Trong thực tế, ít ai từ lúc cầm bút viết những chữ đầu tiên của bài thơ cho đến khi buông bút là có “đứa con tinh thần” chào đời. Có khi ngày hôm sau, tuần sau, nhiều trường hợp còn lâu hơn nữa, phải quay trở lại tiếp tục công việc đang bỏ dở. Lúc ấy, đoạn sau phải viết sao cho ăn khớp với đoạn trước và phải phù hợp với bức tranh toàn cảnh của bài thơ.
Có điều chắc chắn rằng khi bài thơ hoàn tất, cả thi sĩ và người đọc sẽ nhận ra – có thể độ đậm nhạt khác nhau - hình ảnh của con kênh đó. Đó chính là bố cục mà riêng tôi có khi gọi là thế trận chữ nghĩa, hoặc kịch bản của bài thơ.
Kịch Bản Xê Dịch
Xin lập lại một đoạn trong bài viết khác:
Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt; nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện.
Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết. Là người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy.
Chưa có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch, điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được. (1)
Chúng ta thử đọc đoạn kết bài thơ Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính:
Đồn rằng đám cưới cô to
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Tôi không tin là trong thực tế, con số chín (9) hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết “có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn.
Ở đây thủ pháp “bộc lộ, không kể” (Show, Don’t Tell) được phối hợp với phép điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết thật tuyệt vời.
Chắc Độc giả cũng đồng ý với tôi sự xê dịch kịch bản chút ít của Giấc Mơ Anh Lái Đò là có thể chấp nhận được.
Trường hợp này khác với “lối nói thậm xưng” tôi sẽ đề cập ở phần sau.
Kịch Bản Xê Dịch Quá Nhiều Thành Xạo
Nhưng đôi khi có những kịch bản bị xê dịch quá nhiều, đi đến chỗ không hợp tình, hợp lý. Độc giả sẽ cho rằng thi sĩ “xạo”, và bài thơ thất bại.
Bài thơ Tình Yêu Không Lời của thi sĩ Phạm Trung Dũng có tứ thơ khá lạ và cảm động về mối tình của một chàng trai với cô gái câm điếc. Nhưng kịch bản của bài thơ đã được tác giả nêm nếm quá tay.
TÌNH YÊU KHÔNG LỜI
Em thuê trọ cạnh nhà tôi
Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa
Mấy mùa cây khế trổ hoa
Hái nhành tim tím sang nhà em chơi
Em hào phóng ban nụ cười
Pha trà rót nước rồi ngồi lặng im
Hồn tôi như mảnh trăng chìm
Bao lời thông thái nằm im trong đầu...
Một lần trời đổ mưa mau
Bỗng dưng em tới gục đầu vai tôi
Lặng yên... Cứ lặng yên thôi
Làn môi khoá chặt làn môi bất ngờ.
Bồng bềnh nửa thực, nửa mơ
Cùng em lạc giữa mịt mờ phiêu linh
Sông mê - bến lú - thuyền tình
Đã trao thì cháy hết mình vẫn trao.
Một lời chẳng nói là sao?
Một từ cũng chẳng... Lẽ nào, người ơi?
Gương trăng nhoà nước mắt rơi
Đưa tôi mẩu giấy, em ngồi lặng im.
Hồn tôi lại mảnh trăng chìm
Lời vô nghĩa hết! Trái tim khóc thầm.
Thương em vừa điếc lẫn câm
Tai ương từ tuổi mười lăm tới giờ.
Trần nhà cánh nhện buông tơ
Tôi ghì em giữa đôi bờ vai tôi.
(Phạm Trung Dũng)
Là hàng xóm sát mái, kề hè với nhau mấy tháng trời - có khi cả năm - (mấy mùa cây khế trổ hoa), lại sang nhà cô chơi mấy lần mà phải chờ đến khi hai người “tò tí” xong, đọc mẩu giấy cô gái nhét vào tay, mới biết cô gái bị câm điếc và bàng hoàng thương cảm, thì thật không thể nào tin nổi.
Phạm Trung Dũng không những chỉ nêm nếm quá tay mà – trong quá trình làm thơ và kiểm soát lại trước khi phổ biến – anh đã tự bịt mắt mình để không thấy những điều phi lý lẽ ra phải thấy.
Khi nhận ra chi tiết chính trong kịch bản của bài thơ không phải chỉ “không hợp tình hợp lý” mà còn xạo một cách trắng trợn, cảm xúc có được qua việc đọc thơ chỉ là thứ cảm xúc giả tạo, độc giả cảm thấy bẽ bàng vì bị xúc phạm. Bài thơ thất bại một cách ê chề.
CHÚ THÍCH:
1/ (Giấc Mơ Anh Lái Đò Hay Mối Tình Vô Vọng, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com)
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/06/giac-mo-anh-lai-o-hay-moi-tinh-vo-vong_1.html
5/ Xạo Nghệ Thuật - Lối Nói Thậm Xưng
Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” (1)
Thí dụ:
Trong bài thơ Muốn Gởi Cho Em của thi sĩ Phạm Hữu T (tặng Phượng Kim Ngọc Huỳnh) thì câu:
Muốn gởi cho em
chút gió biển Galveston
là một câu “xạo tới bến” vì gió từ biển Galveston (ở Mỹ) làm sao gởi về Việt Nam được? Nhưng phần sau của đoạn thơ lại là những cái “có lý trong nghệ thuật”.
Gió từ Mỹ gởi về:
để dịu bớt cái nắng Sài Gòn gay gắt.
Có lý quá đi chứ! Và hai câu kế tiếp:
nhưng sợ người ta đang đi mà chợt mát
rồi bồi hồi
nhớ nhớ thương thương.
vừa trữ tình lãng mạn - khi mượn ý của Nguyên Sa trong Áo Lụa Hà Đông - lại vừa khôi hài ý nhị. Đoạn thơ mở đầu thật tuyệt vời. (2)
(Xin mở ngoặc nói thêm: Bài thơ là của Phạm Hữu T với cái tựa Muốn Gởi Cho Em; thí dụ trên được trích trong bài bình thơ Mối Tình Xuyên Lục Địa của PĐN)
Đây là kiểu xạo nghệ thuật, “xạo dễ thương”, nâng cao giá trị của bài thơ.
Xạo Nghệ Thuật – Ca Từ Trịnh Công Sơn
Nhiều người khen ca từ của Trịnh Công Sơn nhiều câu hay hơn cả thơ. Tôi chọn câu sau đây trong bài Như Cánh Vạc Bay:
Tóc em từng sợi nhỏ
rớt xuống đời làm sóng lênh đênh
Ôi! Chỉ có mấy sợi tóc nàng rớt xuống – không phải xuống hồ hay sông, biển - mà là xuống đời cũng đủ làm đời “dậy sóng”, làm biết bao phận người chao đảo, ngả nghiêng. Làm sao mà thực được. Nhưng lại rất đẹp, rất “thơ” và rất tuyệt. Nghe rất khoái, rất đã.
Tôi có cảm tưởng, bằng câu ca từ trên (và một số câu khác nữa), TCS không làm thơ nhưng ca từ của ông – không những đẹp hơn, hay hơn – mà hình như đã bước lên một tầng bậc mới, cao hơn hẳn thứ ngôn ngữ thường thấy ở trong thơ.
CHÚ THÍCH
1/ Diên Hồng Dương, Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ Xạo” https://www.facebook.com/dienhong.duong.5/posts/98668014146907
2/ Mối Tình Xuyên Lục Địa
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/06/moi-tinh-xuyen-luc-ia.html
Bài 7
KIỂU XẠO CUỐI CÙNG - XẠO VÌ NÉ TRÁNH "CĂN PHÒNG BÍ MẬT"
Câu Hỏi Làm Thi Sĩ Nhìn Kỹ Lại Tâm Hồn Mình
Giả sử có một thi sĩ nào đó, không có tật nói dóc, không thích “nổ”, viết bài thơ, tứ thơ không kẹt chân ở một bên nào đó của một vấn đề hai mặt, câu hỏi được đặt ra là: “Lúc ấy thi sĩ có xạo không?”
Sau đây là một đoạn trích từ một bài viết của tôi (PĐN): (
Để có thể hội nhập và thích ứng với cuộc sống hàng ngày của cộng đồng, mỗi con người đương đại phải tuân thủ rất nhiều nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng nguyên tắc càng nhiều.
Sau khi vào đời một thời gian (dài ngắn tùy hoàn cảnh riêng) trong mỗi thân xác con người có hai cái tôi cùng chung sống nhưng luôn đấu đá lẫn nhau để đòi quyền làm chủ thân xác đó: “Cái tôi đích thực” và cái tôi hội nhập với cuộc đời – tôi tạm gọi là “cái tôi văn hóa”.
Tuổi đời càng cao “cái tôi văn hóa” càng mạnh, càng rõ nét và “cái tôi đích thực” càng yếu kém, càng mờ nhạt. Đến một lúc nào đó cái tôi văn hóa sẽ “đè bẹp” cái tôi đích thực để độc quyền chiếm hữu cái thân xác kia.
“Cái tôi văn hóa” (cái tôi để sống với xã hội) và “cái tôi đích thực” có một sự khác biệt lớn. Đó chính là những gì tiềm ẩn trong vô thức (của “cái tôi văn hóa”), kín đáo điều khiển suy nghĩ và hành động của con người. Cho nên mặc dù thi sĩ 100% chân thật với “cái tôi văn hóa”, viết bài thơ (về tình yêu, chẳng hạn) không nằm ở bên nào của một vấn đề hai mặt, bài thơ đó cũng chưa phải là tâm tình của “cái tôi đích thực”, vì vẫn còn những điều đã ăn sâu vào tâm khảm, theo tập quán, thói quen, phải che giấu.
Câu Trả Lời Của Trần Hạ Vi
Về điểm này Trần Hạ Vi có câu trả lời sinh động bằng bài thơ Căn Phòng Bí Mật. Xin giới thiệu 2 đoạn hay nhất của bài thơ:
Có những điều sẽ chẳng nói ra
cho dù chúng ta
có yêu nhau đến thế nào chăng nữa
mấy ngàn ngày…
và có thể mấy vạn ngày tiếp lửa
chuyện anh
chuyện em
vẫn ẩn chứa bí mật của mỗi người
Có những góc tối ở trong hồn
của riêng ta
không bao giờ chia sẻ
chẳng phải vì niềm tin không vẹn vẽ
nhưng vì đó là căn phòng bí mật
chẳng nên mở bao giờ.
Khi còn giấu “những điều không thể nói ra”, “những góc tối ở trong hồn” trong Căn Phòng Bí Mật thì làm sao có sự chân thật hoàn toàn trong thơ.
Như vậy, Căn Phòng Bí Mật – Sigmund Freud gọi là vô thức - gần như là chướng ngại vật cuối cùng của con người đương đại nói chung và thi sĩ nói riêng để trở về “cái tôi đích thực”. Có thể nói tuyệt đại đa số công dân của trái đất, đặc biệt ở các nước văn minh, đã phải đối diện với chướng ngại vật này. Và gần như tất cả đã giơ tay đầu hàng.
Không mở được cửa Căn Phòng Bí Mật là một chuyện, họ còn khuyên bảo nhau đừng đụng đến Căn Phòng Bí Mật ấy để giữ “cái hạnh phúc” mà họ đang được hưởng.
Chúng ta ân ân ái ái
tan chảy ân tình
nhưng mỗi người chỉ có thể là riêng một
một anh
một em
dù ngọt ngào chung hưởng
đắng cay chia sớt
nhưng em là em
và anh vẫn là anh
Phòng chứa bí mật của phù thủy vẫn sẵn dành (1)
để chúng ta cất giữ những ước mơ ngông cuồng hoang dại nhất
tình yêu này sẽ luôn luôn có thật
khi em được là em
và anh được là anh
với căn phòng bé nhỏ của riêng mình
(1) Harry Potter và Phòng Chứa Bí Mật
Chính vì thế những triết gia Tây Phương – quan ngại đến nhân phẩm của con người – đã phải la toáng lên. Jean Paul Sartre (1) thì báo động “Con người mang thân phận của một kẻ vong thân”. Còn Albert Camus (1) thì nói “Con người đích thực đã bất lực, để một ‘kẻ xa lạ’ xâm nhập, chiếm hữu thân xác mình.”
Với thi sĩ, nếu lúc nào cũng suy nghĩ, hành xử như một công dân lịch sự của một xã hội văn minh thì cửa CPBM của họ sẽ được khóa chặt, và trên những bài thơ của họ, một chữ “Xạo” thật to luôn nhởn nhơ truớc mắt mọi người.
Chủ Nghĩa Siêu Thực ra đời nhằm giúp Nghệ Sĩ được hoàn toàn Tự Do để Sáng Tạo.
Trong loạt bài này tôi không nói đến các ngành nghệ thuật khác mà chỉ chú trọng đến Thơ - đến phương cách giúp Thi Sĩ xóa bỏ chữ Xạo trong Thơ.
BÀI 8
(Đi Tìm "Cô Em Sự Thật")
CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC
Luận Điểm
Siêu thực dựa trên triết học phân tâm của Freud.
Freud chia hoạt động tâm thần làm ba khu vực: Vùng vô thức, vùng ý thức và Cái Siêu Ngã (le sur moi) có trách nhiệm kiểm duyệt.
Vùng vô thức chứa đựng toàn bộ những nhu cầu bản năng bị dồn nén, cấm kỵ không được phát lộ ra ngoài. Cái tôi vô thức mới là bộ mặt thật, là cái tôi đích thực của con người. Nó chi phối mọi hoạt động tinh thần.
Vùng ý thức chứa đựng những gì đã được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội, sẵn sàng trình làng. Nó chỉ là bộ mặt bề ngoài, giả dối và ngụy tạo.
Cái Siêu Ngã có trách nhiệm kiểm duyệt, chỉ cho “trình làng” những gì chứa đựng ở vùng ý thức đã được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội.
http://thuykhue.free.fr/stt/s/breton.html
Tóm Tắt:
Vô thức là THẬT
Lý trí và siêu ngã là một
Lý trí là thủ phạm tạo ra chữ XẠO trong thơ, nghĩa
là bài thơ càng đậm lý trí thì nét mặt "Cô Em Sự
Thật" càng mờ nhạt.
Cách Loại Bỏ Lý Trí Trong Thơ Của Siêu Thực
Đưa “Mộng” (Mơ) Vào Thơ.
Mơ, đối với Freud, là thực hiện những khát vọng bản năng bị dồn nén. Khi ngủ, cơ quan kiểm duyệt không làm việc, do đó, chỉ trong mơ người ta mới thể hiện được những ham muốn bị dồn ép cấm kỵ lúc tỉnh.
Những điểm không thuận lợi khi đưa Mơ vào Thơ:
a/ Hình ảnh, cảnh tượng, câu chuyện trong Mơ thường “đầu Ngô mình Sở”.
b/ Lúc tỉnh dậy cố ghi lại giấc mơ thì chỗ nhớ, chỗ quên, tính "đầu Ngô mình Sở" càng rõ nét hơn.
c/ Tập hợp những hình ảnh, cảnh tượng xảy ra trong mơ đưa vào bài thơ, không ít thì nhiều, cũng sẽ có bóng dáng của lý trí.
d/ Tính "đầu Ngô mình Sở" của nội dung khiến chức năng truyền thông của bài thơ “đi tìm đồng cảm” với độc giả không thể thành công.
e/ Một điểm nữa, quan trọng hơn cả, là Siêu Thực ở đây chỉ chú ý đến What? (viết cái gì?), còn "How?" (viết thế nào?) thì chẳng cần đề cập.
Cách Loại Bỏ Lý Trí Trong Thơ
Của Nhóm "Xuân Thu Nhã Tập"
Đặt Cạnh Nhau Những Nhóm Chữ Và Hình Tượng Không Liên Quan
Nhà thơ lắp, ghép những thực thể vô cùng xa nhau như suối và bài hát, như ngày và khăn bàn, với điều kiện là sự gặp gỡ này nẩy ra ánh lửa, bùng lên hình ảnh lạ: Bài hát chảy, ngày mở ra. (bài hát "chảy" do gợi ý của "suối", ngày "mở ra" do gợi ý của "khăn bàn")
Mục đích là loại bỏ tính lô-gic, buộc lý trí phải “đi chỗ khác chơi”.
BUỒN XƯA
Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
Rượu hát bầu vàng cung ướp hương
Ngón hường say tóc nhạc trầm mi
Lẵng xuân bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa
Buồn hưởng vườn người vai suối tươi
Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời
Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu
Duyên vàng da lộng trái du ngươi
(Nguyễn Xuân Sanh)
Tôi dùng chút màu mè ở đoạn 2 để dễ nhận diện.
Độc giả không thể “bắt” được tứ thơ. Chức năng truyền thông của bài thơ thất bại. Bài thơ chỉ là một mớ những con chữ vô dụng.
Chúng ta hãy nghe nhà phê bình nổi tiếng Đỗ Lai Thuý phát biểu sau vài lần đọc bài thơ:
“Bài thơ đọc một lần, hai lần... Ấn tượng khó hiểu, nhưng quyến rũ. Và hình như càng khó hiểu càng quyến rũ: cái hay và sự khó hiểu xoắn luyện vào nhau không thể tách bóc được? Và nhà phê bình, với số phận vô duyên của mình, cứ làm cái công việc không thể làm ấy”.
(Nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)
Với tôi, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy “cứ làm cái công việc không thể làm ấy” đúng là có số phận vô duyên thật. Bởi dù có đọc hàng vạn lần, nét quyến rũ có phủ kín tâm hồn, cũng chẳng thể hiểu được bài thơ ấy.
Như vậy với thơ, Chủ Nghĩa Siêu Thực và nhóm Xuân Thu Nhã Tập có luận điểm hữu lý và hữu ích nhưng phương cách thực hiện thì không thành công.
Chữ Xạo vẫn đeo bám chữ Thơ. "Cô Em Sự Thật"
vẫn vắng bóng.
Phần 3: Đã Có Cách Tìm Gặp"Cô Em Sự Thật"
Gồm 2 bài
9/ Bến Bờ Thi Ca Ở Đâu?
10/ Thăm Lại Bài Thơ "Say Đi Em"
Bài 9
(Đã Có Cách Gặp"Cô Em Sự Thật")
BẾN BỜ THI CA Ở ĐÂU?
Mục Đích Của Thơ
Bày tỏ tâm trạng, suy nghĩ trước cảnh đời bằng
thể loại văn học có vần.
Tiêu Chí Thẩm Định Giá Trị Của Bài Thơ
Ngôn ngữ hình tượng đẹp,
đắc địa gợi cảm, câu cú ý nghĩa rõ ràng, chắc gọn, mượt mà, hoàn chỉnh trong cấu
trúc ngữ pháp.
Bố cục hợp
lý, hiệu quá.
Ý tứ sâu
sắc, cao thượng, nhân bản,
Cảnh
Báo Của Hai Triết Gia Hiện Sinh
Jean Paul Sartre: Con
người (giả dối đến mức) đang trở thành một kẻ vong thân - đánh mất chính mình –
(đánh mất “cái tôi đích thực”)(1)
Alberd Camus: Con
người đang để một kẻ xa lạ (giả dối quá mức) chiếm hữu thân xác mình (“cái tôi
đích thực”)
Những chữ trong ngoặc đơn là của PĐN.
Tiêu Chí Thẩm Định Giá Trị Của Bài Thơ Thay Đổi
Từ sau những lời cảnh báo của hai Triết Gia Hiện
Sinh các tiêu chí để phán xét mức độ hay dở của bài thơ cũng dần dần thay đổi.
Bên cạnh 3 tiêu chí 1/ Ngôn ngữ, hình tượng, câu cú, 2/ Bố cục, 3/ Ý tứ giống như ở phần trên giới thưởng thức thơ, bình thơ và cả những người làm thơ còn để ý đến một tiêu chí khác: Sự chân thật của thi sĩ trong bài thơ.
Vẫn Có Cách Loại Lý Trí Khỏi Bài Thơ
Luận điểm:
Khơi dòng để cảm xúc từ cơn cao hứng của thi sĩ tuôn chảy – sóng sau dồn sóng
trước - mạnh đến mức làm thi sĩ “nổi điên”. Lý trí sẽ tạm thời trốn biệt.
Kết quả: Tùy mức độ hiện diện của lý trí lúc thi sĩ bộc lộ “điểm nòng cốt” của tứ thơ ta có những cung bậc khác nhau của hồn thơ (con đẻ của sự chân thật).
Lúc đầu đang tập tành "mò mẫm" tìm gặp hồn thơ, chỉ khi nào lý trí trốn biệt để cảm xúc toàn quyền đạo diễn bài thơ tôi mới mang danh hiệu Hồn Thơ ra ban tặng. Còn những trường hợp có bóng dáng của lý trí tôi dùng "cảm xúc tầng 3" với những tầng bậc khác nhau.
Sau này nhờ góp ý của một bậc cao nhân tôi đã gọi tên Hồn Thơ như sau:
Lý trí nắm toàn quyền lèo lái: Bài thơ - dù cũng có “cái tôi riêng tư”, có cảm xúc tầng 1 và cảm xúc tầng 2 - vẫn rất khô cứng. Không có hồn thơ.
Sau đó, tùy mức độ sụt giảm của của lý trí, hồn thơ xuất hiện với những cung bậc khác nhau.
Hồn thơ mới chớm
Hồn thơ phơn phớt nhẹ
Hồn thơ nhè nhẹ
Hồn thơ ở mức trung bình
Hồn thơ khá mạnh, tương đối mạnh
Hồn thơ mạnh
Hồn thơ rất mạnh, hồn thơ lai láng
Đây là lúc cảm xúc từ cơn cao hứng đã làm thi
sĩ “nổi điên” (giận quá mất khôn, yêu quá hóa cuồng),
lý trí chạy mất. “Chữ Xạo” cũng đội nón ra đi. Những gì nói ra, viết ra được xem là “lỡ lời”, thường bị chê trách vì đã
làm phật ý, buồn lòng rất đông người quen với lối suy nghĩ, cách ứng xử, giao
tiếp lịch sự của xã hội văn minh – nhưng lại là tiếng
lòng hoàn toàn chân thật của thi sĩ.
Bài thơ đã được vinh dự bước vào Bến Bờ Thi Ca.
Khoảnh khắc quan trọng nhất của bài thơ là đoạn
đường từ lúc bước vào mảng chính của tứ thơ cho đến lúc “bật ra” câu (hoặc vài
câu) nòng cốt của cái mảng chính đó. “Lúc ‘bật ra’ câu (hoặc vài câu) nòng cốt
của cái mảng chính đó” chính là CAO TRÀO của
bài thơ.
Nếu bài thơ kết thúc ở cao trào, khi cảm xúc dâng lên cao ngất, thì cường độ của dòng cảm xúc đó chính là hồn thơ, truyền đến tâm hồn độc giả sẽ
mạnh hơn rất nhiều.
Kết Luận
Đến đây chắc độc giả yêu thơ đã có thể hình
dung được “vị trí” của Bến Bờ Thi Ca. Riêng các thi sĩ đang muốn đưa
thơ của mình đến gần (và bước vào) khu đất vinh dự đó thì tôi hy vọng rằng những
bài viết này sẽ giúp quý vị đỡ phần nào thời gian và công sức mày mò tìm kiếm.
Chúc quý vị thành công.
Phạm Đức Nhì
Phần 4: Gặp "Cô Em Sự Thật"
Gồm 2 bài 10 và 11
Bài 10: Thăm Lại Bài Thơ “Say Đi Em”
Bài 11: Thăm Lại Bài Thơ "Trái Tim Rao Bán"
Bài 10
(Gặp "Cô Em Sự Thật")
THĂM LẠI BÀI THƠ “SAY ĐI EM”
Lời Nói Đầu:
Nhiều năm trước tôi đã viết lời bình cho bài thơ đặc biệt này với tựa đề Say Đi Em - Một Bài Thơ “Tới Bến”. Đó là kiểu bình thơ “bài bản, trường lớp” - tiếp cận, phân tích toàn diện bài thơ – như một bài Luận Văn (Essay) ở bậc đại học.
Lần này, nhân dịp mở trang Blog Lý Thuyết Thơ tôi “Thăm Lại Bài Thơ” để nhấn mạnh vài “phương tiện thẩm mỹ” mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã sử dụng một cách điệu nghệ để đưa bài thơ lên đỉnh cao chót vót của nghệ thuật thi ca.
Những “phương tiện thẩm mỹ” đó là:
1/ Bố cục dàn ý hợp lý
2/ Nối kết các ý khi chuyển đoạn khéo léo.
3/ Sử dụng vần điệu nghệ - vị ngọt rất đậm nhưng không ngán
4/ Nhịp điệu sống động
5/ Dòng tứ thơ, dòng âm điệu, dòng cảm xúc – 3 dòng nhập một, chảy rất mạnh.
6/ Đoạn kết tuyệt vời
7/ Tạo được cao trào và kết thúc ở cao trào/ hồn thơ lai láng
Tứ thơ nói đến một sự thật, một nỗi tủi nhục to lớn như một bức tường thành sừng sững trong tâm hồn thi sĩ mà chỉ cần một chút lý trí còn sót lại ông cũng không dám thổ lộ.
Nhờ 7 "phương tiện thẩm mỹ" này cảm xúc trong tâm hồn ông đã dâng cao đến mức nổi điên, lý trí trốn biệt và ông đã "lỡ lời, buột miệng" nói ra cái sự thật ghê gớm đó.
Xin mời đọc tiếp lời bình.
SAY ĐI EM
Tác giả: Vũ Hoàng Chương.
1/
Khúc nhạc hồng êm ái
điệu kèn biếc quay cuồng
một trời phấn hương
đôi người gió sương
đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương…
Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?
hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
lòng nghiêng tràn hết yêu thương
bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
2/
Ánh đèn tha thướt
lưng mềm não nuột dáng tơ
hàng chân lả lướt
đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Âm ba gờn gợn nhỏ
ánh sáng phai phai dần…
bốn tường nghiêng điên đảo bóng giai nhân
lui đôi vai, tiến đôi chân
riết đôi tay, ngả đôi thân
sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta
cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa
tay mềm mại bước còn chưa chuếnh choáng
chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời Phóng Đãng
còn chưa say hồn khát vẫn thèm men
3/
Say đi em! Say đi em!
say cho lơi lả ánh đèn
cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt
rượu, rượu nữa! Và quên, quên hết!
ta quá say rồi
sắc ngả màu trôi…
gian phòng không đứng vững
có ai ghì hư ảnh sát kề môi
chân rã rời
quay cuồng chi được nữa
gối mỏi gần rơi!
trong men cháy giác quan vừa bén lửa
say không còn biết chi đời
4/
Nhưng em ơi
đất trời nghiêng ngửa
mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
đất trời nghiêng ngửa
thành Sầu không sụp đổ, em ơi
(Vũ Hoàng Chương)
Thành Sầu Của Vũ Hoàng Chương
VHC ngoài việc bắt buộc phải theo Tây học để tiến thân, còn cắn phải miếng mồi “ru ngủ” của người Pháp. Ông cũng lao vào những thú vui trác táng – rượu, thuốc phiện, nhảy đầm và cả gái nữa. Về điểm này, Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một đoạn khá đầy đủ:
Người say đủ thứ: Say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn “hơn” cổ nhân những thứ say mới nhập cảng: Say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say thơ. (3)
Như vậy, “thành sầu” của VHC là nỗi sầu đất nước bị ngoại bang đô hộ, dân tộc bị chúng làm tha hóa, băng hoại bằng đủ mọi âm mưu thâm độc.
Trớ trêu thay, chính ông lại góp tay, giúp sức cho bộ máy cai trị ấy, chính ông lại lậm vào những cuộc chơi trác táng do chúng đặt ra, không những tự làm hỏng mình mà còn làm gương xấu cho lớp trẻ, rường cột của tương lai dân tộc.
Ông cảm thấy tội lỗi, tủi nhục, uất ức và chất ngất buồn sầu.
Tứ Thơ
Trong một đêm đi nhảy ở vũ trường, gặp “bạn nhảy cũ”, tác giả mời nàng đối ẩm, có ý muốn mượn rượu để giải sầu, nhưng uống đến mức “say không còn biết chi đời” mà nỗi sầu vẫn sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.
Bố Cục Dàn Ý
Bài thơ có thể chia làm 4 đoạn:
1/ Đoạn mở đầu 10 câu, thiết lập khung cảnh của bài thơ: Đến vũ trường, gặp người tình cũ đang là ca ve ở đấy. Tình đã héo nhưng chân còn “ngứa ngáy” nên xáp lại.
2/ Đoạn hai 16 câu: Cảm giác “Đê mê hồn gửi cánh tay hờ” khi đang dìu em trên sàn nhảy lúc rượu đã ngà ngà.
3/ Đoạn ba 13 câu: Mời em cùng uống cho đến khi “say không còn biết chi đời”.
4/ Đoạn kết 5 câu: Nỗi sầu vẫn còn đó – sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.
Vần Và Dòng Chảy Của Tứ Thơ
Về hình thức, tác giả sử dụng thể Thơ Mới, nhưng không phải lối thơ Trường Thiên (mỗi đoạn 4 câu) mà là thể thơ nhất khí liền mạch – một hơi từ câu đầu đến câu cuối. Nhưng cũng không phải như Nhớ Rừng của Thế Lữ – cứ 8 chữ một câu với vần liên tiếp, đọc lên nghe rất ngán.
Có thể tạm gọi đây là một loại Thơ Mới Biến Thể, rất gần với Thơ Tự Do.
“Say Đi Em” rất phóng khoáng. Có đôi chỗ ngừng là do tác giả muốn chuyển ý, đổi vần chứ không phải do đòi hỏi của luật thơ. Ông cũng tạo ra một số thay đổi, vừa tránh được trói buộc của luật tắc, vừa có thể nhấn mạnh điểm chính của tứ thơ.
1/ Số câu trong bài không giới hạn, viết hết ý, hết hứng thì thôi.
2/ Số chữ trong câu thay đổi (với biên độ rộng) một cách tùy tiện, tùy hứng. Câu ngắn nhất 3 chữ (Chân rã rời), câu dài nhất 13 chữ (Hoa xưa tươi, trăng xưa đẹp, gối xưa kề, tình nay sao héo). Nhờ thế, nhịp điệu thơ thay đổi liên tục.
3/ Vần rất đậm, nhưng không có hội chứng nhàm chán vần, đọc lên không thấy ngán. Câu sau nối tiếp câu trước, tứ thơ và cảm xúc cứ thế tuôn chảy thành dòng. Lý do: Nhịp điệu thay đổi cộng với sự giúp sức của mấy đoạn gieo vần gián cách:
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Và:
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Thêm vào đó, để thay đổi không khí, còn có hai câu thơ lục bát mượt mà ở đoạn đầu:
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
và sự phối hợp một cách tài tình điệp ngữ, điệp vận với vần ôm ở đoạn kết.
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Ở thời điểm trước năm 1940 mà đã sử dụng vần phóng khoáng và điệu nghệ như vậy thì thật đáng nể phục.
4/ Chuyển đoạn ăn khớp: Cũng xin nói đến một điểm nổi bật về kỹ thuật thơ của VHC là sự chuyển đoạn ăn khớp, khéo léo – từ ý này bước qua ý khác rất ngọt.
a/ Đoạn 1 qua đoạn 2
Từ:
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ.
qua:
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ.
Vừa nói “hết yêu nhưng còn mê nhảy” đã chuyển qua cảnh ôm em trên sàn nhảy. Sự kết nối thật tương hợp.
b/ Đoạn 2 qua đoạn 3
Từ:
Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men
qua:
Say đi em! Say đi em!
Đều nói đến rượu, kết nối hợp lý.
c/ Đoạn 3 qua đoạn 4
Từ:
Say không còn biết chi đời
qua:
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Vừa thú nhận “Say không còn biết chi đời” đã thấy “Đất trời nghiêng ngửa”. Mối liên hệ nhân quả, không một kẽ hở.
Nhờ sự chuyển đoạn khéo léo như vậy nên tứ thơ thông thoáng, bài thơ nhất khí liền mạch, cảm xúc lớn mạnh nhanh chóng.
Điệp Vận Ở Phần Sau Đoạn 3 – Nói Về Cơn Say
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi…
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Có 9 câu thơ ngắn mà đến 6 lần vần ôi (hoặc ơi) – điệp vận đến mức thoạt nhìn qua là đã mất cảm tình. Nhưng thật lạ! Đọc lên không những không thấy ngán mà còn thấy hồn mình như bị dính chặt vào ý thơ – cơn say thực sự, “say không còn biết chi đời” – của tác giả.
Với cơn say ở đỉnh điểm như vậy, không còn chỗ cho lý trí và con đẻ của nó là sự dối trá, bám víu. Năm câu sau của đoạn kết đúng là tiếng lòng chân thật.
Điệp vận kiểu ấy, theo tôi, nếu là người làm thơ tỉnh táo, chắc là sẽ tránh xa. VHC, trong lúc lạc lần trí, đã hiên ngang bước vào “bãi mìn” ấy. Nhưng nhờ thế, đã tạo được một đoạn thơ độc đáo, có giá trị như một con dấu chứng nhận sự chân thật cho đoạn kết, góp phần hết sức quan trọng vào sự thành công của thi phẩm Say Đi Em.
Đoạn Kết Tuyệt Vời
Sau khi đã uống đến “Say không còn biết chi đời” thi sĩ đã cho tuôn ra đoạn thơ:
Nhưng em ơi!
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Đoạn thơ hay cả về ngôn ngữ, thi ảnh, cấu trúc, âm điệu và nhịp điệu. Đặc biệt điệp ngữ ở hai cụm từ “em ơi” và “Đất trời nghiêng ngửa” cho độc giả như tôi cái cảm giác đang nghe CODA kết thúc một bản nhạc, được viết rất khéo bởi một nhạc sĩ tài ba.
Thành sầu của ông như đang chịu một trận động đất mạnh đến mức “đất trời nghiêng ngửa” mà vẫn “chưa sụp đổ” và đã chuyển từ chỗ “chưa sụp đổ” – còn chờ đợi, còn một chút hy vọng mong manh – đến chỗ “không sụp đổ” – nghĩa là đã hoàn toàn tuyệt vọng.
Nỗi buồn sầu đã dâng lên đến đỉnh điểm. Chữ “không” ở câu cuối “đắt” như kim cương và ẩn dụ của cả đoạn thơ thật tuyệt vời.
Cảm Xúc Dâng Tràn – Hồn Thơ Lai Láng
Cảm xúc tầng 1:
Theo tôi, VHC thành công trong việc trao tặng độc giả những cảm giác khoái trá ở tầng 1. Ngôn ngữ thơ của ông chắt lọc, trau chuốt, hình tượng đẹp một cách lộng lẫy, kiêu sa, câu thơ mạch lạc, trong sáng. Nói theo ngôn ngữ bóng đá, kỹ thuật cá nhân của các cầu thủ trong Say Đi Em điêu luyện, thuộc đẳng cấp cao, nhìn qua là thấy có cảm tình và nể phục.
Cảm xúc tầng 2:
Trong Say Đi Em thế trận chữ nghĩa được dàn trải hợp lý, tạo hiệu quả tối đa cho việc chuyển tải tứ thơ. Vần và nhịp điệu giúp dòng chảy của tứ thơ thông thoáng. Độc giả như được xem một trận bóng đá mà đội phe mình công thủ, lên xuống nhịp nhàng, đấu pháp toàn đội kín kẽ, hoàn hảo.
Cảm xúc tầng 3:
Là thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ – nếu đến mức dâng tràn, ta có hồn thơ lai láng. Để có hồn thơ lai láng bài thơ cần mấy điều kiện sau đây:
1/ Tứ thơ không phân mảnh đứt đoạn mà phải được dàn trải sao cho ý này nối tiếp ý kia, không ngừng nghỉ.
2/ Thể thơ phải như con kênh thông thoáng để khi câu chữ từ tứ thơ tuôn xuống có thể thành dòng thơ. Trong Say Đi Em, chỉ mới bước vào đầu đoạn 2 là men rượu đã ngấm, cảm xúc quyện lấy tứ thơ và âm điệu để cùng chảy một dòng. Đến đoạn 3, với hiệu ứng đặc biệt của dòng âm điệu, dòng thơ chảy rất nhanh và rất mạnh.
3/ Thi sĩ phải nổi điên để cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí. Trường hợp Say Đi Em, bắt đầu đoạn 3 là lý trí đã trốn chạy khá xa, đến cuối đoạn thì lý trí đã biệt tăm, biệt tích, thi sĩ đã “Say không còn biết chi đời”. Hơn nữa, nội dung bài thơ lại thuộc loại “ngược dòng” nên “cơn điên” phải cực mạnh và “nhiệt độ sôi của cảm xúc” phải rất cao mới có thể phủ mờ lý trí để vuợt qua nỗi Sợ Xấu, Sợ Nhục với người đời cuả VHC.
4/ Phải kết hợp để khi cảm xúc lên đến đỉnh điểm (cao trào) thì cũng là lúc thi sĩ tuôn ra điểm cốt yếu của tứ thơ. Đó sẽ là tiếng lòng chân thật của ngài. Ở Say Đi Em là đoạn 3 và đoạn 4.
Kết Luận
Say Đi Em không những có đủ 4 điều kiện trên mà điều kiện nào cũng đạt đến mức hoàn hảo nên hồn thơ cực mạnh.
Hơn nữa, bài thơ lại kết thúc ở cao trào nên hồn thơ không những cực mạnh lại còn có sức ngân vang trong tâm hồn người đọc mặc dù bài thơ đã hết.
Tôi cho rằng cùng với thi phẩm Say Đi Em của mình, Vũ Hoàng Chương không những đã có thể bước vào Bến Bờ Thi Ca mà còn xứng đáng ngồi vào hàng ghế trang trọng nhất.
PHẠM ĐỨC NHÌ
https://lythuyetthoabc.blogspot.com/
THĂM LẠI BÀI THƠ “TRÁI TIM RAO BÁN”
Lời Nói Đầu:
Tôi đã viết lời bình cho bài thơ Trái Tim Rao Bán của Đinh Thị Thu Vân từ rất lâu. Lần này tôi thăm lại bài thơ, bàn thêm về những "phương tiện thẩm mỹ" đã nâng giá trị của thi phẩm đặc biệt này lên một tầm cao mới để làm thí dụ cho hai phần quan trọng trong trang blog Lý Thuyết Thơ là Kỹ Thuật Thơ và Bến Bờ Thi Ca
(Bàn thêm về Vần, chữ Dâm và Hồn Thơ)
TRÁI TIM RAO BÁN
Có thể
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán
Một ngày
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau - niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán
Một ngày
mỏi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!
Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh
(Đinh Thị Thu Vân)
Vài Nhận Xét Thêm
1/ Tìm hiểu tứ thơ
Đoạn đầu:
Có thể
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán
Bỗng dưng nữ sĩ Đinh Thị Thu Vân lại nghĩ đến cái ngày “phải xót xa, xót xa đem trái tim mình rao bán”. Chị lập lại hai chữ “xót xa” để “thông báo” là nỗi buồn, nỗi cô đơn đã lớn mạnh đến mức phải nghĩ đến chuyện “kỳ cục” đó.
Động từ chia ở thì tương lai nhưng nỗi buồn, nỗi cô đơn, khao khát tình yêu lại đang hiện hữu rất sâu đậm trong lòng chị ngay phút giây hiện tại này đây.
Ở đoạn kế tiếp:
Một ngày
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau - niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán
tác giả cho biết nỗi đau buồn đó dâng cao lên một tầng bậc mới, lúc mà khung cảnh “tình yêu biền biệt, hạnh phúc mù khơi” thúc đẩy những con chữ thấm đẫm nước mắt rơi xuống trang thơ, cho nên dù chỉ còn lại “trái tim biết đớn đau - niềm kiêu hãnh cuối cùng” - chị cũng phải “phũ phàng rao bán”.
Phần đầu đoạn kết:
Một ngày
mỏi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!
Đây chính là giây phút chuyển biến thần tình của tứ thơ. “Mỏi mòn trong ảo vọng” chính là lúc cơn khát tình đã lên rất cao. Rao bán trái tim mà “không cần chọn lựa người mua” – không cần biết người đàn ông sẽ đến với mình là ai - nghĩa là chữ Tình đã đội nón ra đi để chữ Dâm độc chiếm thể xác và tâm hồn chị. Nói bạch văn là “Khát Tình” đã biến thành “Thèm Chim”.
Như thế cũng chưa hết. Rao bán mà “không cần sòng phẳng” – cho người mua được toàn quyền quyết định giá cả - có nghĩa là cũng sẵn sàng cho không “món hàng quý giá” của mình. Đọc đến đây chắc độc giả cũng đồng ý với tôi là cơn “thèm chim” của Đinh Thị Thu Vân đã lên cao ngất.
Đây chính là cao trào của bài thơ. Dòng tứ thơ và dòng cảm xúc trong cơn điên đã dâng lên đến đỉnh điểm và gặp nhau ở đó. Lý trí đã trốn biệt. Tâm tình được gởi đến độc giả là những lời thơ CHÂN THẬT.
Đoạn kết phần sau:
Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh...
Nhóm chữ “một chút tình” - được lập đi lập lại ở đoạn kết, lúc “độ nóng” của cơn điên vẫn còn nhưng đang từ từ hạ xuống; “một chút tình” đó không phải là “sự tương hợp của hai tâm hồn đồng cảm” hoặc kém hơn một chút là tình một chiều – “ta yêu chàng mà chàng chẳng yêu ta”. Ở đây chỉ là một chút thương hại của người với người.
Đây là sự khác biệt lớn giữa Trái Tim Rao Bán của Đinh Thị Thu Vân và Cánh Đồng (1) của Nguyễn Đức Tùng. Với Nguyễn Đức Tùng thì “Khi cơn ‘khao khát dục tình’ đã lên cao thì thoả mãn chữ Dâm với người ngoài hành tinh cũng có thể chấp nhận được”. Còn Đinh Thị Thu Vân thì dù “thèm chim” đến nổi điên, đối tượng của chị vẫn là Con Người trên trái đất.
2/ Tứ thơ:
Nếu đọc lướt qua sẽ thấy tứ thơ rất đơn giản và “rất hiền” như sau:
Tác giả lên tiếng rao bán trái tim mình rồi hé mở cho biết lý do, và sau cùng là giá cả - rất đặc biệt.
Nhưng nếu lặn sâu một chút và đọc “giữa hai hàng kẻ” sẽ thấy:
Tác giả đột nhiên cảm thấy thèm khát dục tình đến cùng cực, sẵn sàng “tặng không” thân xác mình cho bất cứ ai.
3/ Kiếm Tông hay Khí Tông?
Đây là bài thơ Khí Tông, tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng từ câu đầu đến câu cuối.
5/ Ngôn ngữ thơ: Bình dị, dễ hiểu. Những nhóm chữ “mù khơi hạnh phúc”, “biền biệt tình yêu”, “mỏi mòn trong ảo vọng” đã diễn tả thành công một cách xuất sắc tâm ý của tác giả mà không phải dài dòng biện giải, hai chữ “chông chênh” tượng hình và đặc sắc cả về nghĩa lẫn âm.
4/ Số chữ trong câu thay đổi tự do, không bị luật tắc nào bó buộc. Nhịp điệu không đều đều buồn tẻ mà có vẻ uyển chuyển, sinh động.
6/ Nội dung lọt vào vùng cấm, không “phải đạo” mà chảy ngược dòng với nếp suy nghĩ và cách hành xử của người đời. Tâm thế của Đinh Thị Thu Vân lúc đó nếu không thuộc loại “get it off your chest” - cho bung ra khỏi ngực (chứ giữ lại thì chịu không nổi) mà chỉ cần một chút lý trí còn sót lại, chị cũng sẽ chùn bước, không dám đi tới bến.
7/ Không vờn bóng giữa sân: Các con chữ nối tiếp nhau trôi thẳng xuống điểm đến của tứ thơ.
8/ Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 mạnh mẽ; cảm xúc tầng 3 thì khỏi nói – cơn “thèm chim” đã lên rất cao nên "có thể nói" là hồn thơ lai láng.
9/ Giá mà vần NGỌT hơn ít nữa: Bài thơ Trái Tim Rao Bán tôi không dám chê là vần thiếu ngọt, nhưng dòng âm điệu chảy không được mạnh lắm. Tôi nghĩ nếu ở 2 đoạn sau có chút “thủ thuật” điệp vận nào đó khiến các con chữ và hình tượng nối kết chặt chẽ hơn nữa thì sẽ giúp tăng vận tốc và cường độ của dòng âm điệu. Dĩ nhiên, sẽ ảnh hưởng đến dòng cảm xúc. Lúc đó tôi sẽ khẳng định - chứ không phải dè dặt “có thể nói” - là hồn thơ lai láng
10/ Không kết thúc ở cao trào
Phần sau của đoạn kết:
Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh...
được dùng để vừa giải thích vừa nhấn mạnh “Cơn Dâm của ta đã lên cao chót vót, nhưng ta chỉ muốn thỏa mãn cơn Dâm đó với con người trên trái đất, còn những chủng loại khác hoặc ‘người’ ở hành tinh khác thì xin mời đi chỗ khác chơi.”
Tôi thích cái ý này của chị. Theo tôi, nó đậm tính nhân văn hơn ý của Nguyễn Đức Tùng trong bài thơ Cánh Đồng. Nhưng để có được hai chữ “nhân văn” đó bài thơ đã phải có mấy câu giải thích và đã không thể kết thúc ở cao trào.
Điểm đặc biệt nữa của Trái Tim Rao Bán là tứ thơ thì “tục”, bộc lộ những điều mà phụ nữ “kiêng kỵ” nhưng lời thơ lại rất thanh. Chị dùng thủ pháp “Show, Don’t Tell” (Gợi, Không Kể) để bóng gió nói đến cơn “Thèm Chim” của mình.
Tôi rất mong chị và những độc giả nghiêm túc thông cảm cho việc đưa hai chữ “Thèm Chim” vào bài bình. Tại tôi quá mê và muốn làm nổi bật tính nhân văn của bài thơ nên đã đánh liều dùng đến hai chữ này. Tôi nghĩ hai chữ “Thèm Chim” ở đây sẽ làm nét đẹp tổng thể của bài thơ rõ ràng hơn, cao hơn, sang trọng hơn.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
https://lythuyetthoabc.blogspot.com/
CHÚ THÍCH:
1/ https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/12/canh-ong-mot-bai-tho-la.html
Bài thơ Trái Tim Rao Bán
Bài 12
(So Sánh)
BẠN THÍCH THƠ ĐẸP HAY THƠ CÓ HỒN?
Hỏi để hỏi vậy thôi chứ nếu quý bạn đã cùng tôi dõi
theo "hướng đi mới của thơ" để tìm gặp Cô Em Sự
Thật thì lẽ nào bạn lại vô tình với Hồn Thơ.
Vâng! Cô Em Sự Thật an trú trong Hồn Thơ,
hay nói khác đi, Hồn Thơ chính là Cô Em Sự Thật.
Bài thơ có hồn là đã thấp thoáng bóng dáng Cô Em
Sự Thật. Hồn thơ càng mạnh thì mặt mũi Cô Em Sự
Thật càng đẹp, càng rõ nét, vóc dáng càng dễ
thương.
Bây giờ mời mọi người thưởng thức 2 tuyệt tác thi
ca và sau đó là mấy lời bình ngắn về nét đẹp riêng
của mỗi bài thơ. Và cũng để xem bài thơ nào có
bóng dáng Cô Em Sự Thật.
Lê Đạt và Tô Thùy Yên là hai tài năng thơ đặc biệt
của Văn Học Việt Nam. Khi đất nước chia đôi năm
1954, Lê Đạt ở miền bắc. Từ những năm 50 ông đã
nỗ lực thay đổi bộ mặt của hình thức thơ. Về nội
dung, ông tham gia phong trào Nhân Văn Giai
Phẩm, đứng về phía nhân dân chĩa mũi dùi vào
những bất công, bất cập của chế độ.
Bài thơ Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử được
nhiều người biết đến và một thời đã gây xao động
văn đàn miền bắc.
Tô Thùy Yên ở miền nam. Cũng vào những năm
cuối thập niên 50 ông nằm trong nhóm Sáng Tạo,
tìm một hướng đi mới cho thơ ca và văn học miền
nam. Sau năm 1975, ông bị đi cải tạo 10 năm.
Được thả, ông sáng tác bài Ta Về được rất nhiều
người tìm đọc và khen ngợi.
Hai bài thơ của hai tài năng thơ ca này có điểm
giống nhau là đều dài nhưng lại khác nhau về mặt
hình thức.
1/ Ta Về có hình thức là Thơ Mới Trường Thiên
phân mảnh đứt đoạn.
Bài thơ gồm 124 câu, 868 chữ, chia làm 31 đoạn.
Mỗi đoạn 4 câu, mỗi câu 7 chữ, có thể đứng độc
lập như một bài thơ hoàn chỉnh, diễn tả một mảnh
tâm trạng của tác giả.
2/ Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử có
dạng Thơ Mới Biến Thể, Nhất Khí Liền Mạch
Bài thơ có 900 chữ, thêm đoạn Tái Bút 358 chữ,
tổng cộng 1258 chữ. Số chữ trong câu thay đổi với
biên độ rộng, gieo vần liên tiếp, dàn trải liên tục từ
câu đầu đến câu cuối.
Xét về nét đẹp văn chương thì Ta Về nổi trội hơn
nhiều. Mỗi đoạn là một “bài thơ’ ngắn cô đọng, súc
tích và rất đẹp.
Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử thì ngôn ngữ,
câu cú dễ tiêu, dòng chảy xiết, “sóng sau dồn sóng
trước”. Có Hồn Thơ hay không? Tôi để tùy bạn
đọc.
Ta Về
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can
Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm
Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi
Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen
Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa
Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao
Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh
Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.
Tô Thùy Yên
1/ Thể thơ: Thơ Mới Trường Thiên, phân mảnh đứt đoạn.
2/ Dòng tứ thơ: Không có dòng tứ thơ. Chỉ có 31 "hố thơ"
3/ Vần: 26 đoạn vần gián cách 2/4, 4 đoạn vần gián cách cả 1/3 lẫn 2/4, 1 đoạn vần liên tiếp. Hội chứng nhàm chán vần khá nặng.
4/ Số chữ trong câu: Mỗi câu 7 chữ, không đổi, cứng ngắc.
5/ Dòng âm điệu: Không có dòng âm điệu (dòng nhạc)
5/ Nhịp điệu: Nhịp điệu đều đều, tẻ nhạt
6/ Dòng cảm xúc: Không có dòng cảm xúc
7/ Độ dài: Bài thơ dài 868 chữ chia thành 31 đoạn, mỗi đoạn 4 câu
8/ Tâm thế của thi sĩ: Lúc ngòi bút mới chạm trang giấy thi sĩ có tâm thế xốn xang, rạo rực, muốn mở valve cho cảm xúc trào ra (get it off your chest) nhưng vì chọn thể thơ phân mảnh, đứt đoạn nên cứ đến cuối đoạn lại ngừng nghỉ, tạo cơ hội cho lý trí chen vào để lèo lái đoạn kế tiếp và vì thế cảm xúc bị kẹt "hố nào nằm yên hố đó", không có dòng chảy.
9/ Cảm xúc tầng 1 (đến từ câu chữ, biện pháp tu từ): Mạnh
10/ Cảm xúc tầng 2 (đến từ bố cục, thế trận): Trung bình.
11/ Hồn thơ: Không có hồn thơ
Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử
Ðọc báo Nhân dân số 822
có đăng tin mấy người tự tử
vì câu chuyện tình duyên trắc trở
Ðêm mùa hè nóng nôi như lửa
tôi ngồi làm thơ
vừa giận, vừa thương mấy người xấu số
chân chưa đi hết nửa đường đời
đã vội nằm im dưới mộ
Cuộc sống cho dù lắm mưa nhiều gió
nhiều cay đắng xót xa
cũng còn đẹp gấp vạn lần cái chết
chết là hết
hết đau hết khổ
nhưng cũng hết vầng trăng soi sáng trên đầu
hết những bàn tay e ấp tìm nhau
len lén, bước chân hò hẹn
Bây giờ gặp gỡ nơi đâu?
dù có chết cùng nhau
cũng vẫn là chia tay vĩnh viễn
trời đầu xuân mây vần bão chuyển
có lạnh không?
tôi biết hai người khổ lắm
còn gì buồn bằng không được yêu nhau
nhưng sao lại chết?
Nhà đạo đức vuốt hàng râu mép
hạ kính lắc đầu
chép miệng “hòa bình chủ nghĩa”
tôi không nghĩ vội vàng như thế
Tôi đã từng yêu
từng đã khổ nhiều
nhưng không thể tán thành cái chết
tôi không thích loại cúi đầu theo số kiếp
không sống cùng nhau
thà chết cùng nhau
con người ta cần cứng một cái đầu
chọi nhau cùng số kiếp
cắn răng vào cứ sống cứ yêu
Khi Lương Sơn Bá tương tư trên giường bệnh
ngày một võ vàng
ôm bóng người yêu mà chết
khi Chúc Anh Ðài xăm xăm vào huyệt
theo nhau cho trọn lời nguyền,
cả rạp lặng yên
những chiếc khăn tay đầm đìa nước mắt,
sự thật cuộc đời đắng cay hơn nghệ thuật,
Lương Sơn Bá, Chúc Anh Ðài
sống không được yêu nhau,
chết còn được hóa thành đôi bướm,
nhưng mấy người tự tử
xác bây giờ mục nát dưới mồ,
biết ai thương họ?
Có phải vì chúng ta quá yêu người cũ
mà quên người sống bây giờ?
có phải vì chúng ta mất nhiều trong Kháng chiến,
nên chủ trương tiết kiệm lòng mình?
có phải vì chúng ta muôn việc rối tinh
đành xếp lại chuyện mấy người tự tử?
Lịch sử trải qua bao nhiêu đau khổ
những người chết thiêu trong lửa
những người chết gục trong tù
những người chết treo trên cột
tùng xẻo lăng trì
rỏ máu trên bàn thờ nhân loại
cho con người được làm người
cho con người được yêu được sống
tôi muốn gào lên cho đến khi lạc giọng
“không gì đau thương bằng mất một con người"
Sao họ lại đưa nhau đi tự tử?
có phải họ không bằng lòng chế độ
bất mãn với cuộc đời?
không.
Họ chưa hai mươi
cô bé hôm nào mới lớn
soi trộm vào gương, thấy má mình hồng
nghĩ đến chuyện lấy chồng
đỏ mặt
người con trai ngồi trên gò đất
thổi sáo gọi người yêu
làm nắng chiều
dừng lại
lúa đương thì con gái
cũng thấy rộn trong lòng
xôn xao gió thổi
Ðầu sát bên đầu bàn chuyện tương lai
thôn xóm tan dần bóng đen địa chủ
cuộc đời như ánh trăng mỗi ngày một tỏ
sáng bừng lên
trong những chiếc hôn đầu
chế độ ta không cấm họ yêu nhau
mà sao họ chết?
Người công an đứng ngã tư đường phố
chỉ huy
bên trái
bên phải
xe chạy
xe dừng
rất cần cho việc giao thông.
nhưng đem bục công an
máy móc đặt giữa tim người
bắt tình cảm ngược xuôi
theo đúng luật đi đường nhà nước
có thể gây rất nhiều chua xót
ngoài đời
Ngày Phật đản vừa rồi được nghỉ
tôi đến nhà Văn Cao
hai đứa rủ nhau
đi ăn thịt chó
Văn Cao vốn là người nể vợ
ăn xong mua một gói về nhà
tôi bỗng giật mình,
(nhưng không để lộ ra)
người chủ xé thơ tôi
gói thịt
Ngay lúc đó tôi chỉ còn muốn chết
như dại như điên tôi oán đất, oán trời
nhưng hôm nay tôi chỉ oán mình tôi
thơ tôi bị cuộc đời ruồng bỏ
vì tôi đã ngủ quên trong chế độ
vẽ phấn bôi son, tô toàn màu đỏ
la liệt đầy đường hoa nở
chim kêu
“Tốt tốt!
xà và!
tốt tốt!”
Qua thơ tôi
cuộc đời như hết chuyện
có thể khoanh tay yên trí đi nằm
như Thượng đế bước sang ngày thứ tám
Không! Không!
bóng những ngày xưa u ám
còn lởn vởn che cuộc đời như gấu ăn giăng
Cải cách đợt năm
tôi có qua thăm nhiều thôn xóm
những cây lúa cúi đầu dưới ruộng
đã ngẩng mặt lên trời
mơ ước mấy nghìn đời
biểu tình trên dãy thẻ
lũy tre làng phơi phới bay xa
mở rộng cửa đón những ông chủ mới
ruộng đất nông dân được đội về cởi trói
nhưng còn tim
còn óc con người?
Giữa năm Cộng Hòa lớn khôn mười một tuổi
vẫn còn lọt lưới
nhiều thói “an nam”
dán nhãn hiệu
“Made in Cách mạng”
ngang nhiên xúc phạm con người
đẩy họ đi tự tử.
Phải quét sạch mây đen cho chân trời rộng mở
chặt hết gông xiềng
cho những cánh tung lên
ngày và đêm
mộng bay đầy cuộc sống
khát vọng theo khát vọng
không gì ngăn cản con người.
Hà Nội, tháng 6-56
Lê Đạt
Bài thơ đến đây, đáng lẽ là chấm hết
nhưng tác giả đọc cho mấy người quen biết
thấy cần tái bút đôi lời
Một anh bạn chửi tôi:
“hết chuyện rồi sao
mà lại đẽo đến chuyện người tự tử
ngậm mực phun đen chế độ”
Anh bạn ơi!
tôi khuyên anh
không đẹp gì cái lối vu oan giá hoạ
ném bã rượu vào nhà người
“trăm năm bia đá thời mòn
ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”
lịch sử luôn luôn duyệt lại
không ai lừa được cuộc đời
trước tòa án ngày mai
Mấy thằng bán rẻ ông cha đi làm chó
đánh hơi gật gù
“lại một thằng làm thơ bất mãn”
lân la xán đến gần
hoa chân múa tay
rêu rao miền Bắc
trong kia miền Nam
thế này thế khác.
Cút ngay đi! Đừng giở trò kiếm chác
ăn bẩn sủa càn
đất nước trong khó khăn
đối với chúng ta càng yêu càng quý
con thương cha mẹ
lúc ốm lúc đau
chén thuốc múi chanh bảo nhau chạy chữa.
Tôi chưa quên những ngày qua đau khổ
kiếp sống nặng trên vai
như một án tù
cắt tóc đi tu
tu không trọn
thuốc phiện dấm thanh không thoát nợ đời
mười tám tuổi già hơn ông cụ
tôi đã biết thế nào là tự tử
nên tôi yêu thiết tha cuộc đời
Càng yêu cuộc đời
tôi càng yêu chế độ
chế độ của tôi
sống để bụng
chết mang theo dưới mộ
Nhưng yêu thương
không có nghĩa là tụng kinh gõ mõ
bán dầu cù là
xoen xoét “vì Đảng vì Dân”
để lừa Dân lừa Đảng
Cuộc sống đòi hỏi người làm thơ can đảm
vạch mặt những con sâu cách mạng
ẩn núp trong nếp cờ
đội mũ đi hia
phè phỡn trên lưng chế độ
Tôi trở lại chuyện mấy người tự tử
họ đúng hay sai,
thôi để họ nằm yên ngủ
dù khen dù chê
họ cũng đã chết rồi
Nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ những người
còn sống
Phải hiểu, phải yêu, phải trọng
con người…
Hà Nội, tháng 7-56
1/ Thể thơ: Thơ Mới Biến Thể, nhất khí liền mạch, tứ thơ chảy thành dòng.
2/ Vần: Vần chân là chính, chỗ đậm chỗ nhạt, không có quy củ.
3/ Số chữ trong câu: Thay đổi với biên độ rộng
4/ Dòng âm điệu: Âm điệu chảy thành dòng thông thoáng
5/ Nhịp điệu: Uyển chuyển, sinh động
6/ Dòng tứ thơ + dòng âm điệu cho dòng cảm xúc bám theo
7/ Độ dài: 1258 chữ
8/ Tâm thế của thi sĩ: Bất bình, bực dọc, "mở valve cho cảm xúc trào ra" nhưng phải luồn lách để "né đạn" vì vẫn Sợ - nhất là đoạn Tái Bút.
8/ Cảm xúc tầng 1 (đến từ câu chữ, biện pháp tu từ): Mạnh
9/ Cảm xúc tầng 2 (đến từ bố cục, thế trận): Mạnh
10/ Hồn thơ: Tùy bạn đọc
NHẬN XÉT
Đọc Ta Về, tôi tưởng tượng
Tô Thùy Yên như một người khổng lồ đeo trên lung một bọc lớn đựng đầy cảm xúc.
Đáy bọc có một cái vòi, có valve để có thể đóng mở theo ý muốn. Thế rồi thi sĩ của
chúng ta tay cầm xẻng đào hố, tay cầm vòi, mỗi hố lại mở valve xịt vào một ít cảm
xúc. Được 31 hố thì buông xẻng ngửa mặt lên trời than rằng:
“Ôi! Bọc cảm xúc còn nhiều quá mà ta
không còn đủ sức đào hố nữa
rồi.”
(“Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được
lòng ta.”)
Đọc Ta Về của Tô Thùy Yên
người đọc sẽ lững thững đi tới từng chiếc hố – cả 31 hố, hố nào cũng đẹp – để
thưởng thức đường nét tinh xảo của từng nhát xẻng, màu sắc đẹp đẽ, sang trọng
pha lẫn chút kiêu sa của cái khối cảm xúc ở trong hố, để thấy khối cảm xúc đó sóng
sánh như muốn trào lên miệng hố.
Tô Thùy Yên, qua Ta Về, đã
chú trọng rất nhiều đến các đoạn thơ. Tâm huyết của ông đổ vào cho việc tuyển
chọn ngôn từ, tạo dựng hình ảnh. Ông cho rằng: “… một
bài thơ dài thành công, tức không bị sa lầy vào sự phân giải lắm lời, phải là một
bài thơ mà mỗi đoạn ngắn của nó, nếu như được tách riêng ra, đã có đầy đủ cường
độ của một bài thơ hoàn chỉnh.” (Vài Suy Nghĩ Về Thơ Vần, dactrung.net).
(Tôi không đồng ý với ông ở điểm này)
Mỗi đoạn của Ta Về – đúng
vậy – nếu tách riêng ra “đã có đầy đủ cường độ của một bài thơ hoàn chỉnh.”
Không những hoàn chỉnh mà còn rất hay, không một chút tì vết. Nhưng gộp 31 đoạn
thơ lại ta chỉ có 31 hố thơ, 31 vũng thơ chứ không có một dòng thơ, như một
dòng suối, dòng sông, biểu lộ dòng cảm xúc của tác giả.
Có người hỏi:
Nếu nói bài thơ Ta Về không có Hồn, nghĩa là tìm hoài không thấy Cô Em Sự Thật, vậy thì hãy chỉ cho tôi trong bài thơ ấy thi sĩ Tô Thùy Yên đã Xạo ở chỗ nào?
Trả lời:
Nếu hiểu chữ Xạo theo nghĩa đời thường thì tìm hoài cũng không thấy. Nhưng chữ Xạo đang bàn ở đây lại có một nghĩa khác.
Xin lập lại một đoạn từ bài Chủ Nghĩa Siêu Thực:
Theo Sycmund Freud thì:
Vùng vô thức
chứa đựng toàn bộ những nhu cầu bản năng
bị dồn nén, cấm kỵ không được phát lộ ra ngoài. "Cái tôi vô thức" mới là bộ mặt
thật, là "cái tôi đích thực" của con người. Nó chi phối mọi hoạt động tinh thần.
Vùng ý thức chứa đựng những gì đã được
thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội, sẵn sàng trình làng. Nó chỉ là bộ
mặt bề ngoài, giả dối và ngụy tạo.
Cái Siêu Ngã
có trách nhiệm kiểm duyệt, chỉ cho “trình làng” những gì chứa đựng ở vùng ý thức đã được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội.
http://thuykhue.free.fr/stt/s/breton.html
Trong Ta Về, bài thơ có 31
đoạn riêng biệt, cứ hết mỗi đoạn lý trí phải hiện diện để suy nghĩ viết ra đoạn
kế tiếp. Vì thế không có những lúc “lạc thần trí” (vắng mặt lý trí) để những
nhu cầu bản năng bị dồn nén cấm kỵ của “cái tôi vô thức” được phát lộ ra ngoài.
Mà có lý trí thì những gì được
trình làng chỉ là “bộ mặi bề ngoài, giả dối và ngụy tạo”, dĩ nhiên, đậm nét chữ
Xạo mà người đọc, quen dõi theo nét đẹp văn chương, khó nhận ra.
Tô Thùy Yên khi viết Ta Về đã là một thi sĩ lão thành, có tay nghề cao, có nhân cách nên ông không vướng vào những "kiểu xạo đời thường". Nhưng trong Ta Về của ông, do cách chọn thể thơ, không có dòng cảm xúc để "sóng sau dồn sóng trước" lấn át lý trí. Mà, như đã nói ở trên, không có những đoạn "lạc thần trí" thì những gì được trình làng chỉ là “bộ mặi bề ngoài, giả dối và ngụy tạo”, dĩ nhiên, đậm nét chữ Xạo.
Về mặt hình thức, bài thơ Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử gồm 127 câu (theo cách đếm câu của người viết bài này) - không kể đoạn viết thêm 52 câu – viết theo lối thơ mới biến thể. Số chữ trong câu nhiều, ít tùy hứng. Vần gieo liên tiếp, nhưng những lúc cần tác giả sẵn sàng bỏ vần để khơi rộng dòng chảy của cảm xúc.
Thêm vào đó, những câu
chuyển ý, chuyển đoạn thường thoát vận
nên bài thơ tuy dài, đọc giả dường như không cảm thấy dấu hiệu của hội chứng
nhàm chán vần. Vào năm 1956 có được hình thức bài thơ như thế đã là rất mới.
Có thể nói giá trị nghệ
thuật của bài thơ chỉ gồm trong hai chữ: Cảm
xúc. Bài thơ (thực sự) lấy cảm xúc làm chủ đạo.
Mặc dù Lê Đạt đã có thể sử dụng ngôn ngữ đời thường để diễn đạt những ý niệm trừu
tượng, phức tạp một cách tài tình, nhưng tựu trung, ngôn từ, câu cú trong bài
thơ chỉ là những công cụ để khơi dòng, để cho cảm xúc đầy ắp trong lòng tác giả
chảy đến trái tim độc giả.
Khác với Tô Thùy Yên, Lê Đạt
không đào hố. Thay vào đó, ông đào một con kênh dài rồi đổ ào cả cái bọc cảm
xúc xuống. (Thật ra, bởi ông chọn thể thơ nhất khí liền mạch nên con kênh đã có
sẵn trong đầu. Khi câu chữ rơi xuống trang thơ chúng tự đông "chảy" vào
dòng kênh). Cảm xúc cứ nối tiếp nhau, "sóng sau dồn sóng trước" chảy
thành dòng cuồn cuộn. Theo tôi, ở cuối vài đoạn kênh, dòng cảm xúc đã hợp đủ sức mạnh để đẩy
tung cánh cửa trái tim của độc giả.
Bài thơ đã có hồn. Mạnh đến tầng bậc nào, xin để tùy độc giả.
Như vậy, chỉ khác nhau ở thể thơ mà Lê Đạt, mặc dù viết Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử sau Ta Về của Tô Thùy Yên gần 30 năm, đã có vẻ như đi đúng Hướng Đi Mới Của Thơ trong khi Tô Thùy Yên vẫn còn đứng ở "ngoài luồng"
Đây là nhận xét chủ quan của tôi. Quý độc giả nghĩ sao? Xin cho ý kiến.
Cái Nền Kỹ Thuật Của Bài Thơ Đúng Hướng
Muốn ít nhiều có Hồn bài thơ phải có những điều
kiện Căn Bản sau đây:
1/ Thơ phải “nhất khí liền mạch”, trải dài từ câu đầu
đến câu cuối chứ không phân mảnh, đứt đoạn.
Điều kiện này giúp tứ thơ chảy thành dòng.
2/ Vần liên tiếp vừa độ ngọt – ít vần quá thì dòng
chảy của của thơ không trơn, nhiều vần quá sẽ gây
nhàm chán. Điều kiện này giúp thơ có dòng âm
điệu vừa thông thoáng vừa “dễ nghe”, “giữ” người
đọc ở lại với bài thơ.
3/ Nhịp điệu uyển chuyển, sinh động chứ không
đều đều tẻ nhạt. Muốn thế số chữ trong câu thơ
phải thay đổi. Điều kiện này giúp giải quyết (phần
lớn) hội chứng nhàm chán vần.
Vần và Nhịp Điệu sẽ tạo thành dòng nhạc trong thơ.
4/ Dễ tiêu: Đây là loại thơ Khí Tông – chú trọng
cảm xúc – nên chữ, câu thơ phải dễ hiểu, dễ cảm,
dễ tiêu để tránh mô gò cản đường, cho dòng cảm
xúc – lúc ấy đã nhập chung với dòng tứ thơ và
dòng nhạc - được tuôn chảy thông thoáng.
5/ Độ dài đáng kể (đừng quá ngắn): Muốn có Hồn bài thơ phải có độ dài đáng kể. Để làm gì?
a/ Để có “đất” giới thiệu cảnh thơ, giải thích
nguồn cơn mối lương duyên, sự dan díu giữa thi sĩ
và tứ thơ.
b/ Để có “đất” cho những mảnh tâm trạng hóa
thân thành những mảnh tứ thơ nhập vào con chữ
liên tục tuôn xuống trang giấy gây nên cảnh “sóng
sau dồn sóng trước” cho cảm xúc lớn mạnh tạo cao
trào.
Trên đây là những điều kiện Căn Bản, Cần Thiết, là
Cái Nền Kỹ Thuật để có thể tạo Hồn Thơ, đưa bài
thơ thẳng hướng tiến về Bến Bờ Thơ Ca.
Vài Bài Thơ Có Hồn Ở Mức Độ Cao
NHỚ RỪNG
Tặng Nguyễn Tường Tam
(Lời con Hổ ở vườn Bách thú)
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm-thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
1936
THẾ LỮ
NHẬN XÉT THI PHÁP
1/ Nhất Khí Liền Mạch
Nhớ Rừng có hình thức Thơ Mới Biến Thể, nhất khí liền mạch, tứ thơ chảy thành dòng rõ rệt. Mỗi câu 8 chữ (ngoại trừ câu “Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi” 10 chữ).
2/ Vần:
Vần chân liên tiếp, cả bài 47 câu, 23 cặp vần cứ đến hẹn lại lên. Dù tác giả đã sử dụng khá nhiều thông vận nhưng vì bài thơ dài và số chữ trong câu không đổi (8 chữ) nên hội chứng nhàm chán vần khá rõ nét.
3/ Dòng Âm Điệu:
Âm điệu du dương chảy thành dòng rõ rệt nhưng đọc khoảng 20 câu thì cảm giác du dương đã thành ngán ngẩm.
4/ Nhịp Điệu:
Số chữ không đổi cũng là nhân tố quan trọng làm nhịp điệu đều đều tẻ nhạt.
Thế Lữ viết Nhớ Rừng từ những ngày đầu của Phong Trào Thơ Mới (1936) nên việc tuân thủ luật tắc còn cứng ngắc. Chính điều này đã làm giảm giá trị nghệ thuật của bài thơ khá nhiều.
5/ Ngôn Ngữ Hình Tượng:
Khá dễ hiểu, dễ cảm.
6/ Mô Gò Cản Đường
Theo tôi, bài thơ có 2 mô gò cản đường:
a/ Mượn hình tượng của con hổ để bày tỏ tâm sự của mình có một điều hơi kẹt. Khi con hổ thoát cũi về rừng làm Chúa Sơn Lâm nó sẽ là bạo chúa, độc tài, tàn bạo, uống máu ăn thịt thần dân của nó. Liệu những người yêu thơ, khi đọc Nhớ Rừng có tránh được căn bệnh SIDA Nhớ Rừng đó không?
b/ Câu thơ “Nơi ta không còn được thấy bao giờ” nói lên tâm trạng tuyệt vọng của con hổ, đã chảy ngược với dòng chảy của tứ thơ – mong ước đến độ khao khát được trở về làm Chúa Sơn Lâm cai quản cánh rừng xưa.
6/ Vờn Bóng Giữa Sân:
Câu chữ nối tiếp nhau nhắm “điểm đến của tứ thơ” thẳng tiến – không vờn bóng giữa sân.
7/ Tâm Thế:
Tháo valve, mở lòng cho tâm sự và cảm xúc tuôn chảy. Tác giả viết trong lúc cao hứng, tâm thế vô cùng phấn khích.
8/ Dòng Cảm Xúc:
Dòng chảy của tứ thơ, dòng âm điệu và dòng cảm xúc - cả ba dòng nhập một - cùng hướng về “điểm đến của tứ thơ” thẳng tiến. Cảm xúc tầng 3 (hồn thơ) lẽ ra rất mạnh nhưng vì khiếm khuyết trong cách gieo vần và tạo nhịp điệu nên không thể lên đỉnh điểm.
Hơn nữa, còn có 2 mô gò cản đường nên cũng phần nào giảm bớt sự lớn mạnh của cảm xúc tầng 3 tức hồn thơ
Tóm lại, Nhớ Rừng có hồn thơ khá mạnh.
NHÌN TỪ XA… TỔ QUỐC
Ðối diện ngọn đèn
trang giấy trắng như xeo bằng ánh sáng
Ðêm bắc bán cầu vần vụ trắng
nơm nớp ai rình sau lưng ta
Nhủ mình bình tâm nhìn về quê nhà
xa vắng
núi và sông
và vết rạn địa tầng
Nhắm mắt lại mà nhìn
thăm thẳm
yêu và đau
quằn quại bi hùng
Dù ở đâu vẫn Tổ Quốc trong lòng
cột biên giới đóng từ thương đến nhớ
*
Ngọn đèn sáng trắng nóng mắt quá
ai cứ sau mình lẩn quất như ma
Ai ?
im lặng
Ai ?
cái bóng !
A… xin chào người anh hùng bất lực dài ngoẵng
bóng máu bầm đen sõng soài nền nhà
Thôi thì ta quay lại
chuyện trò cùng cái bóng máu me ta
*
Có một thời ta mê hát đồng ca
chân thành và say đắm
ta là ta mà ta cứ mê ta(*)
Vâng – đã có một thời hùng vĩ lắm
hùng vĩ đau thương hùng vĩ máu xương
mắt người chết trừng trừng không chịu nhắm
Vâng – một thời không thể nào phủ nhận
tất cả trôi xuôi – cấm lội ngược dòng
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
*
Ta đã xuyên suốt cuộc chiến tranh
nỗi day dứt không nguôi vón sạn gót chân
nhói dài mỗi bước
Thời hậu chiến vẫn ta người trong cuộc
xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày ?
Ai ?
không ai
Vết bầm đen đấm ngực
*
Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan
Ai ?
không ai
Vết bầm đen quều quào giơ tay
*
Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
ma quái – ma cô – ma tà – ma mãnh…
quỉ nhập tràng xiêu vẹo những hình hài
Ðêm huyền hoặc
dựng tóc gáy thấy lòng toang hoác
mắt ai xanh lè lạnh toát
lửa ma trơi
Ai ?
không ai
Vết bầm đen ngửa mặt lên trời
*
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
Ai ?
không ai
Vết bầm đen tọa thiền
*
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu
Ai ?
không ai
Vết bầm đen cúi đầu lặng thinh
*
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
Ai ?
không ai
Vết bầm đen vò tai
*
Xứ sở cần cù
sao thật lắm Lãn Ông
lắm mẹo lãn công
Giả vờ lĩnh lương
giả vờ làm việc
Tội lỗi dửng dưng
lạnh lùng gian ác vặt
Ðạo Chích thành tôn giáo phổ thông
Ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn
buôn hàng lậu – buôn quan – buôn thánh thần – buôn tuốt…
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
Ai ?
không ai
Vết bầm đen nhún vai
*
Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia li toe toét cười
Mặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa
chen nhau sang nước người làm thuê
Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về
Ai ?
không ai
Vết bầm đen rứt tóc
*
Xứ sở kỷ cương
sao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa xứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có như không có
một người đi chật cả con đường
Ai ?
không ai
Vết bầm đen gập vuông thước thợ
*
?…
?…
?…
*
Ai ?
Ai ?
Ai ?
Không ai !
Không ai !
Không ai !
Tự vấn – mỏi
vết bầm đen còng còng dấu hỏi
*
Thôi thì ta trở về
còn trang giấy trắng tinh chưa băng hoại
còn chút gì le lói ở trong lòng
*
Ðôi khi nổi máu lên đồng
hồn thoát xác
rũ ruột gan ra đếm
Chích một giọt máu thường xét nghiệm
tí trí thức – tí thợ cày – tí điếm
tí con buôn – tí cán bộ – tí thằng hề
phật và ma mỗi thứ tí ti…
Khốn nạn thân nhau
nặng kiếp phân thân mặt nạ
Thì lột mặt đi lần lữa mãi mà chi
dù dối nữa cũng không lừa được nữa
khôn và ngu đều có tính mức độ
*
Bụng dạ cồn cào bất ổn làm sao
miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít
mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
bệnh và tật bao nhiêu năm ủ lại
biết thế nhưng mà biết làm thế nào
Chả lẽ bây giờ bốc thang chửi bới
thầy chửi bới nhe giàn nanh cơ hội
Chả lẽ bốc thang cỏ khô nhai lại
lạy ông-cơ-chế lạy bà-tư-duy
xin đừng hót những lời chim chóc mãi
Ðừng lớn lối khi dân lành ốm đói
vẫn còng làm cho thẳng lưng ăn
Ðổi mới thật không hay giả vờ đổi mới?
máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?
*
Thật đáng sợ ai không có ai thương
càng đáng sợ ai không còn ai ghét
Ngày càng hiếm hoi câu thơ tuẫn tiết
ta là gì ?
ta cần thiết cho ai ?
*
Có thể ta không tin ai đó
có thể không ai tin ta nữa
dù có sao vẫn tin ở con người
Dù có sao
đừng khoanh tay
khủng khiếp thay ngoảnh mặt bó gối
Cái tốt nhiều hơn sao cái xấu mạnh hơn ?
những người tốt đang cần liên hiệp lại!
*
Dù có sao
vẫn Tổ Quốc trong lòng
mạch tâm linh trong sạch vô ngần
còn thơ còn dân
ta là dân – vậy thì ta tồn tại
*
Giọt từng giọt
nặng nhọc
Nặng nhọc thay
Dù có sao
đừng thở dài
còn da lông mọc còn chồi nảy cây.
____
1. Thơ Chế Lan Viên
TẠ LỖI TRƯỜNG SƠN
1.
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
các anh từ Bắc vào Nam
cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
các anh đến
và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
của xì ke, gái điếm, cao bồi
của tình dục, ăn chơi
“Hiện Sinh – buồn nôn – phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các
các anh bảo Sai Gòn là trang sách “hư vô”
văn hóa lai căng
Ngòi bút các anh thay súng
bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
2.
Tội nghiệp Sài Gòn quá thể
tội nghiệp chiếc cầu Công Lý
có anh thợ điện ra đi không về
tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me
tội nghiệp những người Sài Gòn đi xa
đi từ tuổi hai mươi
nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc
Có ai hỏi những hàng dương xanh
xem đã bao nhiêu người Sài Gòn
tội nghiệp những đêm Sài Gòn đốt đuốc
những “người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không
tội nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng
áo chùng đen đẫm máu
tội nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báo
những vị giáo sư trên bục giảng đường
ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc
Sài Gòn của tôi – của chúng ta.
có tiếng cười
và tiếng khóc.
3.
Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những con điếm xưa
Những gã du đãng giang hồ
tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hi sinh
4.
Và khi ấy
thì chính “các anh”
những người nhân danh Hà Nội
các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
chửi đã đời
chửi hả hê
chửi vào tên những làng quê
Các anh những người nhân danh Hà Nội
khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
những bà mẹ làm ra hạt lúa
những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
những bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm
để những đứa con lớn lên
Bây giờ
những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
các anh đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
đã bờm xờm râu tóc
cũng phanh ngực áo
Các anh cũng chạy bấn người
bia ôm và gái
các anh ngông nghênh tuyên ngôn ”khôn và dại”
các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
các anh cũng chạy đứt hơi
rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào…
lại bắt đầu ghẻ lở?
5.
Tội nghiệp em
tội nghiệp anh
tội những ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lí lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
6.
Xin ngả nón chào các ngài
“quan toà trong sạch”
xin các ngài cứ bình thản ăn chơi
bình thản đổi thay lốt cũ
hãy để yên cho hàng me Sài Gòn
hồn nhiên xanh muôn thuở
để yên cho xương rồng, gai góc
chân thật nở hoa.
Này đây!
xin đổi chỗ không kì kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
nơi một góc (chỉ một góc thôi)
Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở
bây giờ…
tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào ”thượng đế”
khi sống hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
sẽ tạ lỗi với Trường Sơn?
Đỗ Trung Quân (1982)
KỸ THUẬT THƠ:
1/ Thể thơ: Thơ Mới Biến Thể, nhất khí liền mạch/ Tứ thơ chảy thành dòng.
2/ Vần: Vần chân là chính, chỗ đậm chỗ nhạt, không có quy củ.
3/ Số chữ trong câu: Thay đổi với biên độ rộng
4/ Dòng âm điệu: Thông thoáng
5/ Nhịp điệu: Uyển chuyển, sinh động
6/ Dòng tứ thơ + dòng âm điệu cho dòng cảm xúc bám theo
7/ Độ dài: 788 chữ
8/ Cảm xúc tầng 1 (đến từ câu chữ, biện pháp tu từ): Mạnh
9/ Cảm xúc tầng 2 (đến từ bố cục, thế trận): Trung Bình. Lý do: Hầu như cả bài thế trận gắn bó, hợp lý; chỉ có câu kết "Ai bây giờ sẽ tạ lỗi với Trường Sơn" trật bàn đạp.
10/ Hồn thơ: Rất mạnh
Độc giả có thể đọc cả bài bình thơ theo link sau đây:
https://phamducnhichoitho.blogspot.com/2023/04/ta-loi-truong-son-bai-tho-nguoc-dong.html
Chút Trải Nghiệm Cá Nhân
Đọc xong Một Chút Tâm Tình khá đông bạn bè và người đọc đã gởi đến tôi những lời bình phẩm. Đồng tình cũng nhiều mà chỉ trích cũng không ít.
Một vị (lớn tuổi, có uy tín) đã trách tôi “không còn cái tinh thần của người lính, nghe hiệu lệnh là cùng đồng đội xung phong chiếm lĩnh mục tiêu.”
Một người khác cho rằng bài thơ của tôi đã “lạc giọng, lỗi nhịp với dàn đồng ca của người Việt hải ngoại.”
Biết trả lời sao bây giờ? Bèn viết bài thơ.
San Leon cuối tháng 1 năm 2013
YÊU THƠ NÊN PHẢI HẾT LÒNG VỚI THƠ
Có một thời bị đọa đày hành hạ
thơ của tôi rực lửa căm thù
máu và nước mắt ướt đẫm những trang thơ
nực mùi tử khí
Thơ cũng đậm màu chính trị
màu này thật dễ thương
còn màu đó… thấy mà ghê!
Ôi! Đẹp quá phe mình, còn phe bên kia
phải chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu
mỗi câu thơ một bài ca chiến đấu
một viên đạn đồng đen
bắn vào chế độ cộng sản bạo tàn
tôi trở thành người lính hiên ngang cầm bút
Thế rồi cuộc đời, thời thế đổi thay
suy nghĩ cũng có phần khác những ngày xa xưa
Những năm sau này
đôi lúc
nhìn cảnh đời dạt dào cảm xúc
bật ra mấy vần thơ
bạn bè nghe qua đầu lắc, tay xua
“Không hợp với trào lưu của người Việt hải ngoại”
Thỉnh thoảng xem lại thơ mình
thơ bạn bè đồng đội
nhiều bài rất lý tưởng
vững lập trường
có kỷ cương
kẻ trước dẫn dắt người sau
riêng hồn thơ thì chẳng thấy đâu
Tôi lao vào đọc
mới đầu là những bài thơ tuyệt tác
tìm hiểu thêm kỹ thuật thi ca
và rồi hầu như tất cả những gì về thơ
từ Âu Á Tây Tầu Anh Mỹ
các trang web văn chương Talawas, Da Màu,
Tiền Vệ
ôn cố tri tân
mong tạo cho thơ mình một vóc dáng riêng
nhưng người lính trong tôi quá đỗi kiên cường
nên tôi vẫn “được” đứng chung hàng
với rất đông "nhà thơ – chiến sĩ"
Một hôm cao hứng
tình quê hương đất nước dâng tràn
nghĩ đến những thôn xóm, phố phường
có tên gọi Việt Nam
đến mẹ già, đàn em, bà con, bạn bè thân thiết
đến cả những người chưa quen biết
và những người đã chết từ lâu
niềm thương cảm từ trong từng thớ thịt
mỗi tế bào
chảy ào trên trang giấy
Nhưng chính ngay giây phút ấy
gió bão nổi lên, cát bụi mịt mù
và trong cái không khí rờn rợn âm u
xuất hiện một chàng trai trẻ tuổi
quân phục bạc màu, mặt buồn rười rượi
lấy cả thân người
che khuất bài thơ đang viết dở của tôi
Khi con chữ vẫn cứ hàng hàng lớp lớp
bay về tới tấp
như sóng biển dồn dập
khiến tôi trong cơn say, cơn điên
vung bút đâm phập vào trái tim
người lính
Tôi đang sống trên nước Mỹ
đất nước tự do
làm thơ
không phải lấm lét nhìn trước, ngó sau
nỗi lo sợ theo vào
cả trong giấc ngủ
giật thót mình nghe tiếng chó sủa ban đêm
Nhưng sao trước mặt vẫn chập chờn
những bóng ma quá khứ
ánh mắt van lơn, bàn tay níu giữ
khiến đã biết bao lần
dòng thơ đang băng băng tuôn chảy
phải khựng lại
luồn lách qua hướng khác
…………
Để có thể hết lòng hết dạ
trọn tình trọn nghĩa
với nàng thơ
tôi tay cầm bút viết, tay nắm dao quơ
đuổi, giết bằng sạch những hồn ma, bóng quỷ
(truyền thống, khuôn phép lễ giáo, thước đo giá trị
của người đời)
Trên trang thơ của mình
tôi chỉ trung thành
với nhịp đập của chính trái tim tôi.
San Leon cuối tháng 1 năm 2013
Phạm Đức Nhì
KỸ THUẬT THƠ:
1/ Thể thơ: Thơ Mới Biến Thể, nhất khí liền mạch/ Tứ thơ chảy thành dòng.
2/ Vần: Vần chân là chính, chỗ đậm chỗ nhạt, không có quy củ.
3/ Số chữ trong câu: Thay đổi với biên độ rộng
4/ Dòng âm điệu: Thông thoáng
5/ Nhịp điệu: Uyển chuyển, sinh động
6/ Dòng tứ thơ + dòng âm điệu cho dòng cảm xúc bám theo
7/ Độ dài: 531 chữ
8/ Cảm xúc tầng 1 (đến từ câu chữ, biện pháp tu từ): Mạnh
9/ Cảm xúc tầng 2 (đến từ bố cục, thế trận): Mạnh
10/ Hồn thơ: Tùy bạn đọc
Diễn Đọc Thơ:
Bài thơ được đọc nhiều nơi, khung cảnh nào cũng được. Dĩ nhiên những người "lập trường kiên định" cười nhạt, lắc đầu. Nhưng đại đa số đồng tình, hưởng ứng, vỗ tay vang dội
HOA DẠI
Tôi là loài hoa dại
mọc bên đường
tỏa sắc hương
dịu lòng những ông bố trên đường đến xưởng
những bà mẹ đi thăm ruộng trở về
Tôi thêm nét vui tươi cho cô gái quê
xách làn đi chợ
Các cô cậu học trò mặt mày hớn hở
cười với tôi mỗi buổi đến trường
Tôi đứng đây mở lòng đón gió bốn phương
để thêm sắc thêm hương
cho người đời thêm đẹp dạ
Bạn đừng tưởng đời tôi êm ả
như mặt nước hồ
tôi đã bao phen nghiêng ngả
trước những trận gió to
Có lúc thân tôi xác xơ
tả tơi từng cánh
lá rụng phấn bay lịm dần trong đêm lạnh
nhưng nghĩ đến ngày mai
tôi gượng dậy mỉm cười
Tuy nhiên
nếu lúc này bạn ngỏ ý mời tôi
đến một ngôi nhà sang trọng
dành cho tôi chỗ ngồi ấm cúng
có kẻ chăm lo trẩy lá tỉa cành
tôi vẫn lắc đầu nhìn dưới chân mình
mảnh đất nhỏ tôi vô cùng yêu mến
Tôi sống
không phải để riêng ai âu yếm
sắc hương này tôi muốn sẻ chia
cho tất cả mọi người
từ em bé ngây thơ
đến các cụ già trăm tuổi
Và nếu nơi đây nước dâng bão nổi
tấm thân này tan nát cuốn muôn nơi
tôi vẫn vui
bởi phấn nhụy của tôi
sẽ mọc lên trăm ngàn cây hoa mới
(239 chữ)
(Phạm Đức Nhì)
Trong thời gian ở bệnh xá Phân Trại B với tình trạng bệnh tật nặng nề: Liệt 2 chân, rối loạn cơ tròn, không kiểm soát được việc iả đái. Nghe tiếng tôi làm thơ, biết nhạc lý, những dịp lễ tết có người làm công tác văn nghệ trong trại bóng gió gợi ý: "Lúc này nếu viết được bài thơ hoặc bản nhạc ca ngợi chế độ sẽ rất có lợi, cơ hội 'sống sót trở về' sẽ rất cao".
KỸ THUẬT THƠ:
1/ Thể thơ: Thơ Mới Biến Thể, nhất khí liền mạch/ Tứ thơ chảy thành dòng.
2/ Vần: Vần chân là chính, cũng có chen vào vần gián cách, vần lưng, ngọt đậm nhưng không đến mức "nhàm chán vần"
3/ Số chữ trong câu: Thay đổi với biên độ rất rộng
4/ Dòng âm điệu: Thông thoáng/ tốc độ khá nhanh
5/ Nhịp điệu: Uyển chuyển, sinh động
6/ Dòng tứ thơ + dòng âm điệu phát sinh dòng cảm xúc, 3 dòng nhập một
7/ Độ dài: 239 chữ
8/ Hồn thơ: Tùy độc giả.
Hoa Dại có Ẩn Dụ toàn bài, cần khả năng liên tưởng và chút nhạy cảm để "bắt" được Tứ và hiểu được Ý nên ít được phổ biến trong trại. Lý do: Trình độ các em tù hình sự "chưa tới".
Nhưng ra đời thì nó dễ được chấp nhận, bất kể lập trường, quan điểm chính trị, miễn là có không khí trầm lặng, ấm cúng, gần gũi. Dân chơi thơ càng nhuyễn thì càng khoái. Bài thơ 239 chữ (không dài lắm) nhưng hồn thơ khá mạnh, khán giả thả tâm hồn theo dòng chảy
Đọc bài thơ này rất hứng. Có một số lần được yêu cầu đọc lại.
Tuy nhiên, đem Hoa Dại vào khung cảnh tiệc tùng vui nhộn, mừng sinh nhật, đám cưới... thì "trât lất".
(Phạm Đức Nhì)
Thơ tôi viết có một phần khá lớn sử dụng phép ẩn dụ trong đó có gần hai chục bài bàn về Lý Thuyết Thơ được bạn bè xếp vào loại “Những Bài Thơ Về Thơ”. Hoa Dại là bài thơ thuộc loại này.
Tứ: Tác giả nói lên tâm sự của một loài hoa dại.
Ý: Bóng gió nói đến tâm sự của chính tác giả - một nhà thơ
Giải Thích Thêm Về “Tứ Thơ”
Khi nghe nói hoa dại người đọc sẽ có thể nghĩ đến một loại hoa khác với loại “hoa nhà” được con người trồng, như một cách trang trí, ở trong nhà hay ngoài vườn.
Nếu đem so sánh sẽ có một số khác biệt như sau:
1/ Môi Trường
a/ Hoa Dại: Mọc ở môi trường tự nhiên, ven đường, ven rừng, chịu đựng nắng mưa, sương gió, có khi cả bão lụt - bất trắc xảy đến bất cứ lúc nào.
b/ Hoa Nhà: Được con người trồng trong vườn hoặc ở trong nhà, được lên luống, chăm bón, tưới tắm, bắt sâu, tỉa lá, bẻ cành, trong một môi trường được kiểm soát, “nuông chiều” và dĩ nhiên, an toàn.
2/ Tự Do
a/ Hoa Dại: Gió thổi hạt đến đâu có thể mọc cây ở đó, cảnh quan trước mắt rộng rãi, thoáng đãng, tầm nhìn bao la.
b/ Hoa Nhà: Chỉ được trồng hoặc trưng bày ở nơi người chủ nhà muốn, bị tù túng trong khung cảnh chật hẹp.
3/ Đối Tượng Phục Vụ:
a/ Hoa Dại: Phục vụ tất cả những người qua lại
b/ Hoa Nhà: Phục vụ những người trong gia đình chủ nhà và khách khứa, bạn bè của họ
Từ Tứ Suy Ra Ý - Nghĩa Bóng
Sau đây là nghĩa bóng (ý) của bài thơ, liên quan đến nhân cách của thi sĩ. Bài thơ muốn nói đến hai loại thi sĩ: Thi Sĩ Hoa Dại và Thi Sĩ Hoa Nhà.
1/ Môi Trường
a/ Thi Sĩ Hoa Dại: Không chức vụ (trong chính quyền), không đặc quyền đặc lợi, không được che chắn, bảo vệ. Thơ là tiếng lòng chân thật nên dễ đụng chạm, sóng gió có thể ập đến bất cứ lúc nào – nghĩa là Thi Sĩ Hoa Dại phải có cái tính “ngông”, coi thơ trọng hơn một cuộc sống no ấm, an bình.
b/ Thi Sĩ Hoa Nhà: Bám vào hoặc dựa dẫm quyền hành để được chữ “an thân”, được quyền lợi vật chất cho mình và gia đình, thường được gọi là “nhà thơ cung đình” (của chế độ), coi sự chân thật trong thơ, hồn thơ nhẹ hơn danh lợi.
2/ Tự Do
a/ Thi Sĩ Hoa Dại: Viết tự do, thoải mái, không chịu áp lực, kiểm soát từ người có chức, quyền, tiền bạc, tứ thơ hướng đến một khung trời rộng hơn, một chân trời xa hơn, giọng điệu cao sang hơn.
b/ Thi Sĩ Hoa Nhà: Viết theo “đơn đặt hàng” (trực tiếp hoặc gián tiếp) của những người có quyền chức cao, bạc tiền nhiều nên đề tài bó buộc, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, viết không vừa lòng chủ thì sẽ “mất” hết, tứ thơ chật hẹp, giọng điệu ít nhiều có tính nịnh bợ, hèn kém.
3/ Đối Tượng Phục Vụ:
a/ Thi Sĩ Hoa Dại: Phục vụ tất cả mọi người, toàn thể nhân loại, nhờ thế nhân cách cao đẹp.
b/ Thi Sĩ Hoa Nhà: Phục vụ một thiểu số có chức quyền, tiền bạc nên nhân cách hèn kém.
Những tính xấu như tham quyền, tham danh lợi, thích được an nhàn không những làm tâm hồn của thi sĩ mờ đục mà ngay chính thơ của Ngài cũng thiếu trong sáng, tươi mát. Thi sĩ kiểu ấy xã hội nào cũng có và thường chiếm số khá đông.
Kết Luận
Cho nên khi làm thơ, nếu mang cái tâm thế của loài Hoa Dại sẽ được Nàng Thơ chào đón niềm nở và thân tình hơn.
WILD FLOWER
(Intimate feelings of a poet)
I am a wild flower
growing along the roadside
spreading color and flagrance
to ease off the fathers
on the way to their workshops
the mothers
on their way back
visiting the rice fields
I add the joyful feature
to the young village girl
shopping bag on hand
going to the market
The young students with their happy look
laughing with me on their way to school
I stand here with open arms
to welcome the breeze from everywhere
to add more colors
more flagrance
to make human life more beautiful
Don’t think my life is calm
like the surface of the lake
I have been through many ups and downs
in front of strong winds
Sometimes my body is tattered
tousled to each petal
the leaves falling
the pollen flying in the air
swooning in the cold night
but thinking of the coming tomorrow
I stand up smiling
However, right now
if you hint to invite me
to come to a luxurious house
reserve a cozy place for me
with somebody to take good care of me
I still shake my head
looking under my feet
the small piece of land
I love so much
I live not for anyone in particular to cherish me
this marvelous beauty
I want to share
with everybody
from innocent children
to hundred-year-old people
And if at this place
flood and storm
this body destroyed and dispersed everywhere
I am still glad
because with my pollen
will grow
thousands of new flower plants.
Thư Của Nhà Thơ Lão Thành Cao Mỵ Nhân
Thân gởi Nhà Thơ PHẠM ĐỨC NHÌ quý mến,
Cám ơn người Thi Sĩ rất hào sảng trong cách nghĩ, mà lại rất cô đơn trên quan niệm thơ ca.
Bài thơ HOA DẠI của PHẠM ĐỨC NHÌ với tôi, phải nói là một kiệt tác. Tôi cứ loay hoay muốn nói cái điều gì đó rằng:
Chúng ta, quý vị và tôi, những người làm thơ, đọc thơ, yêu thơ, thích thơ và cả ghét thơ đi nữa, vẫn phải vỗ tay vào, xin hãy vỗ tay vào, vỗ tay thật lớn, không phải vì hay, mà vì thốt ra được, nói lên được tính chất nhân bản, lãng mạn của một loài hoa dại trải dài trên vạt đất nhân sinh vô cùng phong phú.
Trước hết, xin CÁM ƠN THI SĨ PHẠM ĐỨC NHÌ, sau xin hứa với chính tôi, là phải làm sao thả rộng "mục đích, yêu cầu" của loài HOA DẠI mà PHẠM ĐỨC NHÌ nhận biết hoa ấy rất cần thiết cho Cuộc Đời bất cứ ai muốn, hiểu tính cách làm THI SĨ.
Thành thực cám ơn Nhà Thơ. Thân quý chúc Thi Sĩ PHẠM ĐỨC NHÌ luôn như ý trong sáng tác và hoàn tất điều suy nghĩ về Thơ của tất cả cùng riêng ông.
KÍNH CHÚC VẠN AN.
CAO MỴ NHÂN
Tự do
1/ What: Phải đạo/ ngược dòng
2/ Kỹ thuật
Cái nền kỹ thuật
1/ Tạm đủ xài
2/ Muốn đi xa hơn
Comments
Post a Comment